Thứ Hai, 29 tháng 12, 2014

Gốm men ngọc thời Lý - Trần thế kỷ 11-14


TS. Nguyến Đình Chiến 
Gốm men ngọc cũng là một dòng gốm nổi tiếng của Việt Nam. Trước nay, các nhà khoa học thường cho rằng gốm men ngọc được sản xuất ở Thanh Hoá, Thăng Long, Thiên Trường (Nam Định) và nằm trong khung niên đại Lý - Trần, thế kỷ 11-14. Tuy nhiên, tài liệu khai quật khảo cổ học tại các di tích lò gốm cổ ở Hải Dương gần đây lại cho biết, đồ gốm men ngọc còn kéo dài đến thế kỷ 15. Ngoài ra, ở đây còn có loại gốm ngoài men ngọc trong hoa lam, được sản xuất vào thế kỷ 15, điển hình trong số đó là bát, đĩa. Gốm men ngọc thường chỉ gồm các loại đồ gốm gia dụng, không có loại hình nào kích thước lớn như thạp, thống của dòng gốm hoa nâu. Gốm men ngọc là loại gốm được chế tạo công phu, đất lọc kỹ tạp chất, xương gốm mịn, rắn chắc và nặng. Lớp men phủ ngoài rất dày, màu xanh ngọc, trong và bóng. Do quá trình nung, men ngọc cần có độ lửa hoàn nguyên với thời gian vừa đủ, còn nếu không, các sắc độ men ngọc sẽ thay đổi. Quan sát các đồ gốm men ngọc Việt Nam thấy có các sắc độ màu vàng xám, vàng chanh, xanh ngọc sẫm hay xanh ngả da táo. Qua thời gian, lớp men dày này cũng có nhiều trường hợp bị biến dạng, có vết rạn trong men. Đó cũng là những nét khác và có thể “tách bạch” với gốm men ngọc Trung Quốc cùng thời. 
 Loại hình gốm men ngọc có ấm, âu, bát, bình, chén cao chân, đĩa các loại, hộp, lư hương, liễn, lọ, ống nhổ... Kiểu dáng và trang trí các loại hình đồ gốm men ngọc cũng thường thấy kết hợp trang trí loại hoa văn khắc chìm hoặc in chìm với chạm đắp nổi, khiến cho men đọng giọt đậm nhạt không đều nhau, tạo nên hiệu quả thẩm mỹ rất đặc biệt. 
Ấm có dạng hình quả dưa, quả cam, quả bí hoặc quả bầu lọ (có 2 bầu)..., nghĩa là kiểu dáng ấm dường như được lấy từ các mẫu hoa quả tự nhiên. Vòi ấm có thể là đầu rồng, quai là hình chim vẹt hay một hình chim nhỏ. Vai ấm có khi là băng cánh sen nổi, cánh to xen nhỏ, cũng có khi là văn mây hình khánh. Trên thân ấm khắc chìm băng dây lá hoặc cánh sen.
Một số loại ấm tiêu biểu như:
Ấm có miệng đứng, thân dáng quả dưa, cao 24cm, đường kính miệng 8,5cm, vòi hình đầu rồng, quai hình đuôi rồng, đáy lõm để mộc. Vai đắp nổi 4 dải mây hình khánh trong 2 đường chỉ nổi. Thân khắc chìm hoa lá sen và băng cánh sen, men ngọc màu xanh ngả vàng .

Ấm gốm men ngọc có nắp, chỏm nắp hình búp sen, thân hình quả bưởi, vòi hình đầu chim, quai hình chim vẹt, đế nhỏ để mộc, chiều cao cả nắp 10,5cm, ấm phủ men ngọc màu vàng xám .

Ấm men ngọc hình quả dưa, cao 19,6cm, đường kính miệng 6,5cm miệng thấp, đế nhỏ, đáy mộc, vòi hình đầu chim, quai hình khuyên, thành ngoài khắc chìm dây lá, men xanh ngọc rạn ngả vàng. 

Ấm men ngọc xanh ngả vàng, niên đại cuối thời Trần đầu thời Lê sơ, cao 19,2cm, đường kính miệng 6,5cm, miệng thấp, đế nhỏ, đáy mộc, vòi hình đầu chim, quai hình khuyên. Thành ngoài khắc các băng văn mây, dây lá cách điệu và cánh sen .

Lại có ấm khác tạo dáng như quả bầu lọ, vòi cao, quai hình khuyên dài, đế thấp, đáy tô nâu. Quanh thân khắc các đường chỉ chia múi, men ngọc rạn màu xanh ngả vàng.
Âu có dạng miệng cúp, thân phình, đế thấp, trang trí nổi những bông hoa nhỏ, hình thú và những dải lá chìm. Có âu mang dáng dấp một loại bát sâu lòng, miệng cao, gờ miệng đứng, vai phình xuôi dần xuống đế. Âu thường được trang trí khắc chìm các loại chữ S gấp khúc, cánh sen đơn giản hoặc những dải lá cỏ mềm, nhũ đinh, hình thú, cùng băng dây lá cách điệu.
Dưới đây là một số ví dụ tiêu biểu:
Âu men ngọc rạn màu xanh, cao 11,7 cm, đường kính miệng 11,9 cm, thời Trần, thế kỷ 13-14, có miệng cúp, thân phình, chân đế thấp, đáy bằng tô nâu. Thành ngoài in nổi 4 hình linh thú giữa 2 băng hoa nổi .

Âu men ngọc rạn ngả vàng, cao 11,2cm; đường kính 11,5 cm, có miệng cúp, thân phình gần giống âu trên nhưng thành ngoài có băng nhũ đinh nổi và băng dây lá cách điệu khắc chìm. 

Âu men ngọc rạn ngả vàng khác, cao 10cm, đường kính miệng 15,6cm, có dáng đấu gỗ, thành ngoài khắc băng cánh hoa cúc.
Âu men ngọc sẫm, cao 8,6cm, đường kính 15,3cm, thân phình nở, thu dần về đế, chân thấp lõm để mộc, giữa lòng in chìm bông hoa. Kiểu dáng âu này giống hệt loại âu men nâu ngoài, trong lòng hoa lam hay loại âu vẽ nâu rỉ sắt ở thế kỷ 14-15.
Bát và đĩa gốm men ngọc có rất nhiều kiểu dáng khác nhau nhưng đáng lưu ý là sự tương ứng về kiểu dáng và hoa văn trang trí.
Dưới đây là một số kiểu bát và đĩa gốm men ngọc thời Lý thường thấy:
Kiểu 1: Miệng loe, thành cong đều, chân đế nhỏ.
Kiểu 2: Miệng loe, thành vát cho nên từ miệng tới đế gần thẳng (có người gọi là kiểu hình phễu, cắt dọc hình chữ V).
Bát và đĩa gốm men ngọc thời Trần thường có  xu hướng giảm độ cong ở thân và chân đế thấp, rộng ra, trông vững chãi hơn. Trang trí trên bát-đĩa gốm men ngọc thời Lý-Trần theo 2 cách khắc, in chìm hoặc nổi dưới men. Trong lòng bát đĩa đôi khi còn có 4, 5 dấu kê hoặc khoanh lòng.
Từ tạo dáng cho đến trang trí thường lấy hoa sen, hoa cúc làm khuôn mẫu. Hoa sen được thể hiện theo nhiều bố cục khác nhau. Ngoài ra còn có các đề tài khác như hoa cúc dây, hoa lá cách điệu, hoa cúc nhiều tầng, cánh hoa sen lẫn cúc, Bát bảo của Phật giáo, chữ S gấp khúc, cánh sen, "các em bé của thế giới cực lạc", hoa lá, mây và cá...
Một số mẫu bát đĩa gốm men ngọc hiện đang trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia là những ví dụ tiêu biểu:
Bát men ngọc ngả vàng, cao 7,6-7,7cm, đường kính miệng 15,7cm-19cm, thành ngoài in nổi băng cánh sen hoặc cánh cúc.
Bát gốm men ngọc rạn xanh ngả vàng, cao 7,6cm, đường kính miệng 17cm, miệng loe, thành cong đế nhỏ, trong lòng in nổi 3 tầng cánh cúc (như mô tả một bông hoa cúc nở xoè cánh).
Bát gốm men ngọc xanh ngả vàng, cao 7,5cm, đường kính miệng 16,4cm có miệng khum, thành cong, gờ cắt khấc hình cánh hoa, chân đế nhỏ. Trong lòng bát in nổi bông sen, bao quanh có 7 chữ Hán trong ô tròn. 
Bát gốm men ngọc thời Lý, có miệng loe, thành vát, cao 6,7-7,5cm, đường kính miệng 17,2-18,2cm, trong lòng in nổi 2 hình em bé vui đùa trong hoa lá.

Cùng kiểu dáng bát trên, có bát gốm men xanh ngọc ngả vàng thời Trần, cao 6,4cm, đường kính miệng 16,4cm, trong lòng in nổi hoa cúc 3 tầng và 5 dấu kê.
Đồng dạng với kiểu bát trên là loại đĩa gốm men xanh ngọc ngả vàng xám, cao 3,7cm, đường kính 16,8cm, hay đĩa gốm men xanh ngọc da táo, cao 4cm, đường kính 15cm.

Bình gốm men ngọc thời Lý rất hiếm, đại diện như chiếc bình cao 7,6cm, đường kính miệng 6,9cm, miệng loe, thân dáng búp sen, chân đế thấp, trang trí khắc chìm băng hồi văn và cánh sen.
Bình gốm men ngọc thời Trần có kiểu dáng phong phú hơn. Có bình loại miệng nhỏ, cổ eo vai phình, thân thuôn, đế choãi, trang trí in nổi hoa cúc dây ở phần trên, cánh hoa cúc nổi ở phần dưới. Kiểu dáng loại bình này có sự tương đồng loại mai bình của thời Tống-Nguyên (Trung Quốc).

Nhưng nhiều bình men ngọc khác lại có dáng khác với miệng và cổ hình loa, thân hình cầu, chân đế thấp giống như loại hình ống nhổ bằng đồng thời cận đại. Có chiếc khắc chìm hồi văn chữ V và dây lá phủ kín từ miệng đến chân, chiếc khác lại đắp nổi băng hoa tròn. Ở giai đoạn cuối Trần đầu Lê, thế kỷ 14-15, lại thấy xuất hiện kiểu bình miệng loe đoạn thân trên hình trụ cao, thân dưới phình, chân đế có đường gien. Kiểu dáng này cũng tương tự loại bình men trắng cùng thời.

Ngoài các loại hình trên, nhiều mảnh lư hương trang trí in nổi “Bát quái” hoặc khắc chìm dây hoa lá cúc, mảnh liễn trang trí nổi cánh sen, cánh to xen cánh nhỏ, mảnh chén cao chân (tước) loại miệng loe thành cong, sâu lòng, chân đế tạo hình đốt trúc, đã tìm thấy ở di tích Đồng Gạch, Đồng Giếng, Quần Ngựa trong khu vực thành Thăng Long. Ở Cống Vị, Ngọc Hà trước đây còn tìm thấy cả những phế phẩm của lò gốm như các chồng bát đĩa dính nhau.

Gốm men ngọc thời Lý-Trần đóng góp những bằng chứng sinh động về truyền thống riêng biệt của gốm Việt Nam.

Nguồn: http://khaocohoc.vass.gov.vn

Thứ Năm, 25 tháng 12, 2014

NÉT ĐỘC ĐÁO CỦA THẬP BANG BINH KHÍ

Tác giả: P.N

Đã là người xứ “Nẫu” có lẽ không ai không biết và tự hào về miền đất võ Bình Định. Với hệ thống võ đạo, võ lý được xây dựng từ các quy chuẩn đạo đức và kiến thức khoa học, võ Bình Định đã để lại dấu ấn sâu đậm trong đời sống tinh thần, góp phần hun đúc khí phách anh hùng, truyền thống thượng võ của người Bình Định dọc tiến trình lịch sử. Cho đến nay, Bình Định có rất nhiều bài quyền, bài roi còn lưu lại khá nghiêm túc về lai lịch. Với bài viết này, chúng tôi đi vào tìm hiểu, thống kê các loại binh khí mà dân gian thường gọi Thập bát bang (18 bang) binh khí của võ cổ truyền Bình Định.
1. Côn (roi)
Binh khí này thông thường làm bằng gỗ, tre, mây, cũng có khi làm bằng kim loại, nhưng thông thường được làm bằng gỗ kiềng kiềng hoặc bằng cây tre dài; chia làm hai loại: đoản côn và trường côn.
Roi ngắn được gọi là “đoản côn”, là loại roi có chiều dài từ 1,50 mét đến 1,8 mét. Cả cây roi có độ to đều nhau, có thân tròn với đường kính từ 2,5 centimét đến 3,5 centimét. Đoản côn được sử dụng đánh cả hai đầu rất đắc dụng trong chiến đấu nên gọi là “roi chiến”. Các lò võ ở Bình Định hiện nay ngoài võ tay không (quyền), trong 18 môn binh khí thì đoản côn là thông dụng nhất. Mỗi võ sĩ, võ nhân, võ sư đều thông thạo các bài thảo (có lời thiệu) như: Thái sơn, Ngũ môn, Tứ môn, Trực chỉ, Đoản côn, Thất bộ, Tề mi…
Trong đoản côn có “tề mi côn”. Tề mi côn là binh khí của từng người, không phổ biến cho một võ đường, bởi lẽ tùy theo vóc dáng cao thấp, khi dựng đứng cây côn tính từ dưới đất lên đến đôi lông mày của từng người, gọi tề mi côn là vì vậy.
Xin nói thêm, có một số người sử dụng một cây đoản (tiếng địa phương là “đản”) chỉ dài khoảng
40 centimét đến 60 centimét. Theo chúng tôi thì từ “côn” dùng để chỉ cây roi dài từ 1,50 - 1,80 mét; còn cây ngắn, chỉ dài từ 40 centimét đến 60 centimét, không thể xếp vào loại hình roi nên không thể gọi là côn. Cũng cần lưu ý là có một số địa phương đã gọi loại binh khí đó là cây “đoản” nên không thể nhầm lẫn giữa “đoản côn” với cây “đoản”.
Roi dài được gọi là “trường côn” (còn gọi “trường tiên”), là loại roi có chiều dài từ 3 mét đến 3,5 mét chưa kể phần nùi tóc bó vải ở đầu roi, có phần gốc tròn đường kính khoảng 3 centimét, nhỏ dần lên phần ngọn đường kính chỉ còn khoảng 2 centimét. Roi trường là loại binh khí được dùng để thi đấu trong các kỳ thi võ của triều đình xưa nên còn có tên gọi là “roi đấu”. Hai người đấu với nhau, mỗi người cầm một cây roi. Tay sau cầm cuối đầu to, nơi được gọi là đốc roi, tay trước cầm ở phần thân roi. Ngọn roi là phần đầu nhỏ được dùng để đâm vào đối phương. Những thủ pháp cơ bản trong đấu roi trường là đâm, bắt, lắc, tém. Roi trường làm bằng gỗ, nên thủ pháp sử dụng roi trường không có các đòn quơ, phang ngang, phang xéo hoặc bổ xuống, vì roi gỗ sẽ bị gãy. Để hạn chế sự nguy hiểm và phân định thắng thua trong thi đấu, ngọn roi được bọc bằng một nùi tóc có vải dày bao ở ngoài. Khi thi đấu, nùi tóc có bọc vải được nhúng vào nước hòa tan lọ nồi (cũng có khi nhúng vào mực Tàu). Sau một khoảng thời gian thi đấu theo quy định, ai bị nhiều dấu lọ nồi trên người thì người đó bị xử thua. Theo lời các thầy kể lại thì khi thi đấu roi trường, thí sinh không được đâm, đánh vào đầu đối phương với lý do là tránh “phạm Tổ”, ngoài ra không nói rõ những quy định gì khác.
Cho đến ngày nay chỉ có roi ngắn (được gọi là đoản côn, đản côn, tề mi côn, trung bình tiên, roi chiến) là còn được lưu truyền hầu như khá đầy đủ, còn roi dài là roi trường (được gọi là trường côn, trường tiên, roi đấu) thì có thể nói là đã thất truyền vì không còn thấy sử dụng nữa.
2. Kiếm
Kết cấu binh khí này gồm chuôi kiếm, lưỡi kiếm và bao kiếm. Phần lưỡi dài, phiến dẹt, bề rộng chừng 3 - 4cm, cạnh mảnh và cực bén, rèn bằng kim loại tốt như sắt, thép, hợp kim. Phần cán (chuôi) bằng gỗ, có khi cán cũng được đúc bằng kim loại hoặc mạ vàng, hay chạm trổ rất đẹp. Vỏ kiếm được chế tạo cũng bằng kim loại mỏng và cứng, hoặc những loại gỗ quý dùng để bao ngoài lưỡi kiếm, một đầu kín một đầu hở khi gài vào ăn khớp với cổ chuôi kiếm. Kiếm thuộc hàng vũ khí thanh nhã, sang trọng, được rèn theo yêu cầu của người sử dụng. Thường phải đảm bảo ba yếu tố: sắc, đẹp, có độ nặng, độ dài phù hợp với sức vóc người cầm.
Kiếm lệnh là kiếm chỉ huy, lược trận, phân biệt với kiếm trận ở chỗ kiếm lệnh lưỡi cong ngắn, còn kiếm trận lưỡi thẳng dài. Tùy theo độ dài ngắn mà phân thành trường kiếm hay đoản kiếm. Trường kiếm độ dài xê dịch trong khoảng 1,2m đến 1,5m, có thể giao tranh trên mặt đất hoặc trên ngựa đều tiện lợi. Đoản kiếm là kiếm ngắn, từ chuôi đến ngọn dài chừng năm, bảy tấc, thích hợp với lối đánh cận chiến, giáp chiến. Thường con nhà võ chỉ tuốt kiếm khỏi bao khi giao đấu. Trong giao đấu, vỏ kiếm cũng là một vũ khí để đánh, đỡ, gạt, hất rất lợi hại. Tuy vậy, cũng có không ít những thanh kiếm để trần.
Thời chống Pháp trở về trước, kiếm là môn binh khí rất phổ biến trong võ thuật Bình Định. Nữ tướng Bùi Thị Xuân chuyên đánh song kiếm. Ở Bảo tàng Quang Trung hiện còn lưu bức tranh Bà cưỡi voi trận, tay cầm song kiếm, uy phong lẫm liệt.
3. Kích
Kích là binh khí dài, cán bằng gỗ cứng hoặc đúc bằng kim loại nặng. Phương thiên họa kích có một mũi nhọn ở giữa giống ngọn giáo, hai bên là hai vành đao lưỡi liềm day lưng vào nhau. Bán thiên kích thì chỉ có mũi nhọn với một vành đao lưỡi liềm. Kích nặng ở đầu nên sử dụng không được linh động như thương. Phương thiên họa kích và bán thiên kích gọi là độc kích. Song kích có cán như độc kích nhưng hai đầu kích đều có lưỡi kích giống nhau, lưỡi của song kích giống như lưỡi đao nhưng dài và nhỏ hơn, đường sống của lưỡi kích có cạnh răng cưa, tra hai lưỡi vào cán ngược chiều.
4. Chùy
Chùy là loại binh khí có tay cầm ở giữa là một thanh gỗ cứng hoặc kim loại, hai đầu là hai khối kim loại (sắt, thép, đồng) đặc ruột hình thuẫn hoặc hình tròn, ngoài mặt đúc nổi gai lục giác hoặc xẻ cạnh khế. Bề ngang có đường kính chừng 10 – 15cm. Chùy cũng có chùy đơn và chùy đôi. Chùy đơn cán dài như cán giáo còn gọi là trường chùy, chùy đôi là song chùy, cán ngắn độ 0,40 m đến 0,50 m
5. Đao
Binh khí này có cán bằng gỗ cứng, lưỡi đao càng về phía trước càng to bản, được vát hơi cong dần về phía mũi. Về chủng loại có đơn đao, song đao, đại đao, phác đao. Đại đao là vũ khí nặng, cán dài. Người sử dụng đại đao phải có sức vóc hơn người. Triều Tây Sơn có bốn người nổi tiếng về đại đao là Nguyễn Huệ, Võ Văn Dũng, Trần Quang Diệu và Đặng Văn Long. Đặc biệt là Võ Văn Dũng, tài sử đao của ông được Nguyễn Nhạc khen ngợi: “Phá sơn trung tặc dị, thắng Văn Dũng đao nan” nghĩa là Phá giặc trong núi dễ, thắng ngọn đao Văn Dũng mới khó.
6. Xà mâu
Xà mâu là loại binh khí dài, nhọn, phần trên cùng đúc kim loại uốn khúc như hình rắn. Tác dụng của xà mâu là móc, đâm, giật.
7. Đinh ba
Đinh ba là loại binh khí cán dài, một đầu tra lưỡi sắt có ba răng nhọn xỉa thẳng về trước. Đinh ba vận dụng các chiêu thức của côn, thiên về phóng, đâm, xóc. Cây nạn trong dân gian cùng sử dụng những chiêu thức như cây đinh ba, nhưng làm bằng gỗ hoặc tre.
8. Thương
Thương là loại binh khí dài có cán làm bằng gỗ cứng, ở đầu có mũi hình thoi nhọn đúc bằng sắt. Cách dùng côn và thương về căn bản giống nhau, nhưng côn thiên về đả, còn thương thiên về đâm.
9. Bồ cào
Cũng là binh khí cán dài, một đầu tra lưỡi sắt hình răng lược, giống như cái cào cỏ ở nông thôn Bình Định. Bồ cào cũng vận dụng chiêu thức của côn nhưng lại thiên về đập, giật.
10. Dải lụa đào
Dải lụa đào dài khoảng 1,2m, rộng  khoảng 0,5m. Thường có gắn trái trả mỗi đầu dải lụa một hòn bi bằng kim loại nhỏ như quả cà cưỡng. Nếu dải lụa không gắn bi thì khi giao đấu phải thấm nước mỗi đầu một góc khăn (chéo nhau) để có độ nặng. Dải lụa dùng đỡ, bắt binh khí đối phương, hoặc quật giật ngã đối thủ, nếu phất, quất cũng gây sát thương. Tuy là dải lụa nhưng rất lợi hại. Các lão võ sư xưa thường vắt khăn xéo khi đi đường để phòng thân (trong dân gian có tên là võ khăn), võ khăn xéo cũng chính là võ dải lụa đào.
11. Thái long câu
Thái long câu là một binh khí, tương truyền có từ thời An Dương Vương cho đến thời Trần thì thất truyền. Đến đời Tây Sơn được phục hồi và dùng rộng rãi trong hàng ngũ nghĩa quân Tây Sơn, hiện nay đã thất truyền. Thái long câu có cán như cán giáo nhưng dài chỉ 0,6m, lưỡi hình bán nguyệt, răng cưa đều ở phần lưỡi, độ dài của lưỡi (theo đường cong) là 0,6m. Hình thức sử dụng Thái long câu là bổ, dật, chém rất lợi hại. Trong dân gian sử dụng rựa quéo, câu liêm là theo các hình thức của Thái long câu xưa.
12. Liên tri (dây xích)
Liên tri là loại dây xích làm bằng vải dù, kim loại, dài khoảng 2,2 m đến 2,5m, gắn hai quả chùy ở hai đầu dây, mỗi quả nặng khoảng 0,3kg. Liên tri là một binh khí lợi hại dùng để đánh từ xa, hoặc quất, giật đối thủ.
13. Giản
Giản thường làm bằng gỗ quí, có độ dài từ 0,8m đến 1m. Cán ngắn khoảng 0,2m, có độ lớn vừa tầm nắm của bàn tay. Thân Giản từng đốt hình cạnh khế, nhỏ dần từ cán đến đầu Giản. Giản là một trong những loại binh khí hiện nay không còn thông dụng. Ngày xưa trong sách và các tư liệu để lại là loại binh khí thường được nhà vua ban cho các đại thần có công lớn.
14. Thiết lĩnh
Thiết lĩnh là loại binh khí của thời Tây Sơn, một gậy (như đoản côn) một đầu gậy có nối một đoạn dây khoảng 0,35m, cuối đoạn dây có nối một đoản khúc vuông dài chừng 0,30m; Thiết lĩnh là loại binh khí rất lợi hại: gậy sử dụng như côn; cầm phía gậy mà sử dụng đoản khúc có thể đánh giật chân đối phương hoặc chân ngựa của đối phương, cướp vũ khí của đối thủ.
15. Giáo
Cũng là loại binh khí dài khoảng 2 - 2,5m bằng một loại tre đực đặc ruột hoặc gỗ quí có đầu vót nhọn dẹp, bịt kim loại, hoặc một lưỡi bằng kim loại tra vào cán, dùng trong trận mạc. Trong dân gian thường dùng để đi săn thú rừng. Cách đánh như côn, nhưng lợi thế hơn ở chỗ có mũi nhọn để đâm, lách. Tương truyền đây là vũ khí đắc dụng của nghĩa binh Mai Xuân Thưởng, vì vùng nông thôn Bình Định rất sẵn tre, gỗ.
16. Lăn khiên
Lăn khiên là một tấm chắn bằng gỗ hoặc đan bằng cật tre, mây, dùng để che chắn tên hoặc vũ khí trong khi giao chiến, nhất là trong đánh trận, công thành. Nghĩa quân Tây Sơn rất thành thạo môn lăn khiên - một tay cầm khiên để hứng tên bắn từ xa hoặc đỡ gươm giáo khi đánh xáp lá cà, trong khi tay kia sử dụng một vũ khí khác để tấn công kẻ địch.
17. Cung tên
Cung đầu tiên là công cụ săn bắn, sau mới thành vũ khí chiến đấu. Thân cung và hai cánh cung làm bằng gỗ cứng, có khi là gốc tre lâu năm. Giữa thân cung có rãnh lắp tên. Đầu hai cánh cung được khoét lỗ tròn hoặc đính khuy sắt để căng dây cung. Dây cung thường làm bằng gân trâu hoặc một loại sợi đặc biệt dẻo và cứng, có tính đàn hồi cao, khi kéo mạnh sẽ làm cánh cung cong lại, tạo sức bật đẩy mũi tên bay xa. Tên làm bằng gỗ cứng hoặc tre già, mũi vót nhọn. Về sau, người ta bịt kim loại ở đầu mũi tên hoặc đúc tên sắt, tên đồng để tăng hiệu lực, xuyên thủng được vật cứng.
Môn bắn cung phải qua nhiều giai đoạn tập luyện: giương cung, nhắm đích, quỳ bắn, đứng bắn, dưới đất, trên ngựa. Mục tiêu bắn cũng đa dạng: từ gần tới xa, từ diện đến điểm, từ cố định đến di động. Lại được dạy các mánh khóe đánh lừa kẻ địch như giương đông kích tây, giương nam kích bắc v.v.  Người bắn cung giỏi có thể bắn chim đang bay, hoặc còn nói trước được mình sẽ bắn rơi con thứ mấy trong đàn. Nổi danh về bắn cung ở Tây Sơn xưa từng có La Xuân Kiều, Đặng Xuân Phong, Lý Văn Bưu.
18. Búa (phủ)
Búa là loại binh khí gần giống với rìu chặt cây của tiều phu. Cán búa làm bằng gỗ cứng dài chừng một cánh tay. Lưỡi búa đúc hoặc rèn bằng sắt, thép tốt, rất nặng. Búa đơn gọi là độc phủ, hoặc trường phủ có cán dài như cán đại đao; búa đôi có cán ngắn gọi là song phủ. Những chiếc búa đặc biệt trên sống còn được chạm đầu hổ hay đầu rồng rất tinh vi, gọi là hổ đầu phủ hoặc long đầu phủ. Chiêu thức của song phủ gồm các đòn ngắn, mạnh, trực diện, khả năng sát thương kẻ địch rất lớn, thích hợp với lối đánh thấp, cận chiến, trên bộ. Người sử dụng song phủ phải có sức lực hơn người, thân pháp cực kỳ mau lẹ.

(Xin cáo lỗi cùng tác giả bài viết, do quá trình lưu tài liệu ban đầu chưa có kinh nghiệm tôi đã không ghi chú lại nguồn cẩn thận, nên bài viết này tôi không thể ghi nguồn tài liệu.)

Thứ Bảy, 20 tháng 12, 2014

Bác Vật Xà Bông


Tác giả: SƠN NAM

So với các rạch khác ở ven vịnh Xiêm La, vùng Xẽo Bần thuộc vào hàng tương đối sung túc. Dân ở đấy sanh sống bằng hai nghề: phá rừng lấy củi và khi tiết trời thuận tiện, họ ra biển đánh lưới tôm. Tiền bán củi vừa đủ cho họ mua gạo ăn, thuốc hút; nghề đi lưới thì chỉ đem lợi riêng cho một số người có ghe, có lưới. Người đi bạn thường lãnh tiền buổi, tùy theo lưới trúng hoặc thất – tay làm hàm nhai. Ðôi mươi mái nhà lá, vài ba gốc dừa không trái: ngọn Xẽo Bần xơ rơ như vậy đó. Chung quanh là cánh đồng cò bay thẳng cánh nhưng đầy năn kim, ô rô, cỏ ống. Cò lông bông, trích, cúm núm bay lượn tối ngày. 
    Dân làng nào tha thiết đến vùng đất phù sa nê địa! Vì vậy, khi ông bác vật X, đến xây nền đúc, cất nhà ngói, tự xưng là chủ đất thì không một ai xao xuyến cảm thấy quyền lợi mình bị đụng chạm. 
    Trái lại, họ rất vui mừng. 
    Trước tiên, ông bác vật đích thân đến thăm từng nhà trong xóm. Hễ gặp ai chào hỏi quá khúm núm, ông can gián: 
    - Bà con cứ bình đẳng, đừng nên gọi tôi bằng ông, tôi còn nhỏ tuổi lắm. Cứ gọi tôi bằng dượng Hai. Ðất này của bên vợ; vợ tôi thứ hai. 
    Hỏi qua vấn đề nền nhà, ông bác vật trả lời: 
    - Ai lỡ cất nhà nơi đâu, cứ yên lòng ở đó. Tôi không bao giờ có ý đuổi bà con. Tôi còn muốn kêu gọi bà con đến thêm, ở đông chừng nào vui chừng nấy, thỉnh thoảng mời bà con vô nhà tôi chơi. Lúc nào tôi cũng ở nhà để lo việc khoa học. Tánh tôi bình dân lắm, ai có chuyện gì khó hiểu tôi sẵn sàng giải thích. 
    Kể từ đó, buổi trưa hoặc buổi tối, nhà ông bác vật luôn luôn tấp nập. Ði rừng bắt được rùa, săn được heo rừng là bà con nghĩ đến ông, đem lại tặng. Ðáp tạ thạnh tình ấy, ông bác vật dắt từng người vào phòng làm việc của mình. Trên vách, hai hàng kệ đầy sách mỗi quyển dầy hơn tấc tây, lưng da mạ chữ vàng lấp lánh. Một cái bàn tròn chiếm giữa phòng. Trên đó đủ kiểu ly, hũ, bầu... Toàn bằng pha lê trong vắt: cái thì méo miệng, cái thì tròn như trái dừa, có cổ dài uốn éo như cổ cò. Lại thêm chiếc đủa bằng pha lê dụng đúng trong ống, dài theo ống có lằn đỏ như vạch đo từng phân, từng ly tỉ mỉ.
    - Thứ gì ngộ quá vậy, dượng Hai. 
    Ðáp: 
    - Ðồ dùng để thí nghiệm hóa học. 
    - Hóa học là chi vậy, thưa dượng. 
    ông bác vật mỉm cười: 
    - Khó cắt nghĩa lắm. Thủng thỉnh, bà con sẽ rõ. Hóa là biến hóa... Các chất hóa học hiện nay còn thiếu mới mua được chút ít. E nguy hiểm, tôi chưa dám cho bà con xem. 
    Mãn buổi thăm viếng, bà con xóm ngọn Xẽo Bần vô cùng thắc mắc. Ban nãy, còn biết bao nhiêu câu hỏi mà họ không dám hở môi thố lộ rạ Giờ đây, họ xúm xít lại bàn tán cho hả hơi: 
    - Bà con biết không? Nghe tới hóa học tôi điếng hồn. Rủi ro nó nổ bất tử. Nội mấy cái ly, cái bầu của ổng cũng đủ ghim miểng nát bấy thi thể bà con mình. 
    - Ðừng nói bậy! Người ta dùng nó được nên mới dám chứa chấp. Tôi nghi dượng Hai mình làm... Quốc sự. Nhè ổng chế tạo bom đạn, dân chúng ở đây, ắt phải liên can. 
    - Ừ, tôi coi ổng là người có kỳ tài. 
    - Kỳ tài gì? Thực lộc chi thệ Chắc ổng có bằng cấp bên Tâỵ Nhờ vậỵ. 
    - Bằng cấp gì? Có thì ổng nói rồi. Chắc là “nhảy đầm” ở bển rồi về đâụ Năm ngoái tôi đi Trà Vinh gặp ông nọ xưng là bác vật canh nông. Ổng trồng mười cây đu đủ; lớn lên toàn là đu đủ đực... 
    - Nói xấu thiên hạ đi! Biết đâu ổng muốn trồng đu đủ đực để thí nghiệm. 
    - Ối thôi! Hơi đâu mà cãi. Xứ mình không bao giờ có nhơn tài được. Ði qua học bên Tây, nếu người Việt Nam nào trổ tài thì Tây ám sát hết. Tụi nó “muối nước đá” bắt nhơn tài của mình đem ướp cho chết, không cần đâm chém hoặc chích thuốc cho loạn óc, tê bại... Dầu sao Dượng Hai mình cũng là người dễ thương biết chữ nghĩa nhiều hơn mình. 
    Rồi thì ai về nhà nầy, sáng thì đi lưới, tối lại phá rừng. Công việc sanh nhai của họ ngày thêm đình trệ. Làm ra được, ngặt bán không ai muạ Vải bô giá càng mắc, kiếm không ra. Có điều lạ là dạo ấy thuốc ký ninh mua rất rẻ, thứ ký ninh bọc đường uống ngọt ngọt. Thiên hạ bảo đó là phát minh của Nhựt Bổn, thuộc dòng giống da vàng như người Việt Nam mình, nhưng họ biết chế thứ máy bay có mặt trời đỏ sau đuôi, thường bay lượn dài theo ven biển nầy. 
    

- o O o -

Dượng Hai bỗng trở nên vui vẻ lạ thường, kể từ ngày đi Bến Tre về. 
    Trước mặt bà con chòm xóm, dượng tuyên bố: 
    - Mình ở đây sống trên kho vàng mà không hay. Nay mai, ai nấy đều có công ăn chuyện làm. Tôi sẽ cất một cái xưởng lớn. Thời Trời giúp tôi. 
    Có người hỏi: 
    - Mình dùng hóa học để chế tạo ra vàng, phải không? 
    Dượng im lặng mỉm cười rồi mở tủ, lấy cho mọi người xem một khối vuông, màu vàng như đất sét: 
    - Ðây là xà bông của tôi mới chế tạo như ở Bến Tre. Cỡ này, nó lên giá gấp ba vì không nhập cảng nguyên liệu hóa học được. Tôi hy vọng giúp bà con công ăn việc làm, xưởng xà bông của tôi sẽ cất tại đây thật gấp, cần dùng hàng trăm nhân công. 
    Họ trố mắt nhìn cho biết thứ xà bông mới lạ đó. Hồi nào tới giờ, ở đâu ít ai cần dùng đến xà bông nên không mua về. Họ dùng cám hoặc vỏ trái khóm chà vào bàn tay là bao nhiêu bụi bặm, dầu mỡ đều trôi hết. 
    Dượng Hai nói tiếp: 
    - Lúc này Nhựt Bổn đánh giặc với Ðồng Minh. Ðường giao thông tiếp tế bị ngăn cản. Vì vậy, thiếu xà bông. Giá xà bông từ hai cắc một kí lô đến sáu cắc. Nay mình chế tạo xà bông bổn xứ, bán chừng bốn cắc thì thiên hạ xúm lại giành mua như tôm tươi, mặc dầu xấu hơn chút ít! 
    - Ở Xẽo Bần nầy, làm sao đủ vật dụng? 
    - Sao không đủ! Mình cần dùng có hai món: dầu dừa với nước tro. Dầu dừa đã sẵn sàng: Ra Hòn Tre mua dừa khô về thắng lại. Nước tro thì nào là tro than đước, tro bẹ dừa, tro cây mắm. Nhứt là câu mắm, mọc đầy bãi biển, tro nó mặn hơn hết và rẻ vốn hơn hết. 
    - Nấu cách nào vậy dượng? Ðể tụi tôi về nấu thử. 
    “Ðể tụi tôi về nấu thử”. Mấy tiếng đó khiến cho vầng trán của dượng Hai nhăn lên, thoáng qua chút gì lo ngạị Nhưng chỉ thoáng qua thôi! Dượng cười to, lấy trong tủ đem ra một cái ống thiếc. 
    Mở ống, bên trong ló ra một vật khác bằng thủy tinh nhỏ hơn chiếc đũa, bề dài cũng ngắn hơn, một đầu thì tròn vo. Dượng nói: 
    - Ðây là... Cái ống thủy. Phải có nó mới nấu xà bông được. Dùng để cân nước tro. 
    - Cân là làm sao dượng? 
    - Cân là đo lường sức nặng của nước. Thí dụ như chén nước tro này: muốn biết mặn hay lạt, phải thả cái ống thủy vô coi thử nó mặn tới mấy độ. 
    Nói xong, dượng bỏ ống thủy vào nước tro. Lạ thay! Ống thủy dựng đứng. Dượng nói: 
    - Số 32, bà con thấy chưa. Bây giờ tôi đổ nước lạnh từ từ. Nước tro bớt mặn, ống thủy nổi không phải ngay số 32 mà thấp hơn: con số 31, 30, 29. Phải mặn đủ chữ nước tro mới hiệp với dầu dừa để thành xà bông. Bằng không hai thứ ấy cứ lỏng bỏng. Ống thủy này bây giờ mắc lắm, bên Tây không còn gởi qua được. Bí mật của nghề làm xà bông là vậy... Thôi, mai này bà con lại đây, tôi nấu thử cho coi. 
    Buổi gặp gỡ khi nãy mở đầu cho bao nhiêu hậu quả tai hại mà dượng Hai không đoán trước được. Dân chúng ở ngọn Xẽo Bần suy nghĩ: nếu mình chế tạo được xà bông thì tội gì đi làm mướn cho dượng Hai. Bà con lối xóm có thể tự ý mở ra mỗi người một xưởng nhỏ. Điều quan trọng là nấu một lần coi nó có đặc không, thay vì dùng ống thủy để cân nước tro, họ dùng lưỡi mà nếm thử. 
    Trong khi Dượng Hai thí nghiệm xà bông tại nhà, đằng này bà con xóm Ngọn cũng bỏ hết công việc làm để... “nấu” với kiến thức tối thiểu của mình. Nước tro cây mắm, dầu dừa và nước lạnh trộn trong chảo, bắc lên bếp. Họ ngóng xem kết quả. Nhắm chừng xà bông có thể đặc, họ cho nhiễu vài giọt trên giấy hút thuốc. Nhưng lạ thay! khi đổ ra khuôn, xà bông chỉ đặc trên mặt, lớp dưới lỏng bỏng toàn nước tro mặn đắng. 
    - Tại mình thiếu cái ống thủy để cân nước tro - Một người nói. 
    - Phải đó! Tro cây mắm mặn không đồng đều, cây già mặn hơn cây non, khúc gốc mặn hơn khúc ngọn, tôi chắc như vậy. 
    Có người thỏ thẻ: 
    - Hay là... để tôi lại đẳng lén ăn cắp cái ống thủy đem về đây cho bà con mình xài. 
    Người khác can gián: 
    - Ở tù chết. Hơn nữa, đem về đây mình biết xài nó theo cách nào. Ai biết số, biết chữ? Tôi tưởng mình nên ăn cắp một chút nước tro, thứ nước tro mà ổng đã thí nghiệm, được coi là đúng chữ. Ðem chén nước đó về đây, mình cứ chế tạo một cái ống thủy khác, không cần mua ở bên Tây như ổng. 
    - Làm cách nào? 
    - Mình kiếm cái chai dầu gió cũ, bỏ dằn vào đó một hột chì rồi đậy nút lại, để chai nọ không nằm ngang khi nổi trên mặt nước. Ðó là ống thủy của mình tạm chế tạo. Bấy giờ mình thả chai dầu gió nọ vô nước tro, thứ nước tro mà dượng Hai đã cân rồi, đúng chữ. Hễ chai dầu gió chìm xuống đến mức nào, mình ghi lằn mặt nước ấy vào hông chai. 
    Ý kiến đó được hoan nghinh và thi hành. 
    Thế là vài ngày sau mỗi người đều có một ống thủy riêng biệt. Dượng Hai nào hay biết chuyện gì, ngày hai buổi, dượng đinh ninh rằng với một kế hoạch châu đáo, theo qui mô to lớn, xóm ngọn Xẽo Bần sẽ trở thành một trung tâm quan trọng. 
    Nhưng có điều khiến dượng khó hiểu: Từ nửa tháng qua, bà con lối xóm ít lại đây để nói chuyện như mọi lần. 
    

- o O o -

Một buổi sáng, chú Xồi bơi chiếc xuồng “tạp hóa” đến bến, mời dượng: 
    - Dượng Hai mua xà bông không? Xóm mình chế tạo thứ này nhiều quá rồi. Ðem giặt quần áo bọt cũng nhiều như xà bông bên Tây. 
    Dượng Hai thất sắc: 
    - Ai chế tạo vậy? 
    Chú Xồi đáp: 
    - Nhà nào cũng có nấu. Không tin dượng đi dạo coi thử. 
    Ðến bây giờ, dượng Hai mới hiểu tại sao hổm rày mấy người trong xóm khi gặp dượng là họ chào hỏi sơ qua rồi kiếu từ lập tức, sắc mặt không được tự nhiên. 
    Dượng thở dài: 
    - Trách ai bây giờ! Tại mình “sanh bất phùng thời” Bao nhiêu xà bông sản xuất ở ngọn Xẽo Bần được tung ra khắp thị trường miền Hậu Giang. Cạnh tranh có hiệu quả với loại xà bông chế tạo bằng tro dừa ở Bến Tre vì tro cây mắm ở đây mặn hơn. Mỗi khi đi bán từ xa trở về, họ không quên mua tặng cho dượng vài gói trà Kỳ Chưởng. 
    - Trăm sự cũng nhờ khoa học của dượng đó, dượng ạ! 
    Dượng Hai đáp: 
    - Tôi mừng dùm bà con. Bà con đi dọc đường có gặp ai nấu xà bông như xóm mình đây không? Phải thận trọng, giấu nghề... 
    - Có. Nhưng xấu hơn xà bông mình nhiều. Họ bán chạy nhờ có hiệu. Kỳ này tôi tính khắc con dấu Việt Tân, Việt Hưng gì đó để đóng vô, kèm theo hình mặt trời cho cục xà bông nó “mạnh” một chút. 
    ...Năm 1945, cả xóm ngọn Xẽo Bần không nấu xà bông nữa. Họ phải lo những chuyện khác cao cả hơn. Nhưng ý nghĩa của cuộc chiến đấu mới nào có gì lạ hơn là làm cho dân giàu nước mạnh, phát triển nội hóa. Có lẽ vì lý do đó mà họ hăng hái hơn ai hết. Vì họ đã thấy rõ một lần rồi. 

Nguồn: vietfun.com

Thứ Sáu, 19 tháng 12, 2014

Chuyện Chưa Biết Về Người Việt Cổ

VÂN LAM


PGS Nguyễn Lân Cường tại một khu khai quật.
PGS Lân Cường cho biết, nhìn chung, chiều cao trung bình của người Việt cổ chỉ khoảng 1m45-1m50. Tuy nhiên, cũng có những mộ táng tìm được, bộ xương có chiều cao tới 1m62…

Các cụ nhà ta biết làm đẹp!

Có đợt đi đào được một khu mộ táng, các nhà khảo cổ tìm thấy một chiếc chum to trong mộ. PGS Lân Cường và các đồng nghiệp tranh luận gay gắt về việc có chôn người trong đó hay không? Ai cũng bảo không thể vừa một người trong lòng chum như thế.
Còn PGS Lân Cường lại nằng nặc bảo rằng: Vừa vặn một người. Và để chứng minh, ông tự mình ngồi cuộn tròn người lại trong chum một cách gọn gàng. Hóa ra, cái chum đó đúng là dùng để làm mộ táng thật. Và PGS Lân Cường đã không chỉ đùa khi nói ông là mẫu người chuẩn của người Việt cổ. "Thấp bé thế thôi nhưng các cụ nhà ta lại rất ăn chơi nhé. Có nhiều phong tục mà đến giờ con cháu chúng mình theo cũng không hết đâu".
Chum dùng làm mộ táng.
PGS Nguyễn Lân Cường mô phỏng lại tục táng mộ chum của người Việt cổ (ảnh do PGS Lân Cường cung cấp)

Vào năm 1997, Viện Khảo cổ và bảo tàng Quảng Ngãi phát hiện tại xóm Ốc, xã Lý Vĩnh, huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) có một mộ đất song táng kỳ lạ. Người đàn ông khoảng 50-60 tuổi được chôn cùng một người phụ nữ khoảng 20-25 tuổi với niên đại của văn hóa Sa Huỳnh (năm 1.000 trước Công nguyên).
Điều gây ngạc nhiên cho các nhà khảo cổ là trên bàn tay phải ở ngón tay giữa của người đàn ông có đeo một chiếc nhẫn bằng vỏ ốc.
Với PGS Lân Cường, trong suốt hơn 40 năm làm việc tại Viện Khảo cổ và nghiên cứu khoảng 800 bộ di cốt người cổ thì đây là hiện tượng lần đầu tiên gặp. Người đàn ông này cũng thiếu 2 cái răng cửa! Có người khi xem mộ táng này được trưng bày tại bảo tàng Quảng Ngãi có hỏi: "Người đàn ông chôn cùng kia là bố hay chồng cô gái?". PGS Lân Cường lắc đầu bảo, chỉ có cách làm ADN mới có thể biết rõ điều này.
Những tưởng hàng vạn năm trước, khi cuộc sống mang tư tưởng lạc hậu, cái đẹp không được chú ý, nhưng hóa ra, ông bà tổ tiên của chúng ta lại "sành điệu" và biết cách làm đẹp đến kinh ngạc. PGS Lân Cường kể, qua hàng nghìn ngôi mộ cổ đã khai quật đều thấy trong đó được chôn theo các hiện vật như lọ, chum, quần áo, bát, vòng xuyến… Đây cũng là thói quen của người sống dành cho người chết để khi họ sang thế giới bên kia còn cần những thứ này sử dụng. Tục này cũng giống như cuộc sống hiện đại của chúng ta bây giờ…
8h45 phút ngày 10/5/2006, trong khi dùng chiếc kim nhỏ cậy từng tí đất ở hốc mắt, PGS Lân Cường run lên khi phát hiện màu trắng vôi của thân ốc và hét toáng lên: "Thấy rồi, thấy rồi!". Lớp đất mỏng được bóc đi làm lộ dần 2 con ốc nằm gọn trong hốc mắt của người đàn bà. Loại ốc biển có tên khoa học là Cyprea arabica- các nhà khoa học Việt Nam gọi là ốc loa hay ốc lợn. Con ốc nằm ngửa trong hốc mắt phải dài 21,61mm, con ốc nằm ngửa trong mắt trái là 27,23mm rộng 16mm. Người xưa đã sử dụng loại ốc này làm đồ trang sức và thay cho tiền tệ, nên còn có tên là ốc tiền.

"Trong lúc khâm liệm, người ta đã đặt lên mỗi mắt một con ốc, để khi phần da thịt tiêu đi, con ốc sẽ tụt xuống hốc mắt như thay cho con mắt. Dựa vào vị trí của xương tay, xương sườn, chậu hông và các đốt bàn tay, bàn chân, chúng tôi cho rằng đây là di cốt chôn nguyên dạng chứ không phải cải táng.
Chưa bao giờ tôi gặp trường hợp như vậy. Đây là một phát hiện cực kỳ quan trọng không những về mặt cổ nhân học (vì đây là bộ xương phát hiện đầu tiên tại Tuyên Quang) mà còn về mặt tư duy. Khả năng những cư dân thuộc văn hoá Hoà Bình (cách đây khoảng hơn 1 vạn năm) suy nghĩ rằng, người phụ nữ Phia Vài này đang bước sang "một cuộc sống mới", bà ta cũng cần hai con mắt như những người đang sống khác. Lại cũng có thể con cháu bà cho rằng, đặt hai con ốc vào hốc mắt làm cho người quá cố đẹp hơn, sống hơn"- PGS Lân Cường phấn khởi tuyên bố.
Nhổ răng cửa cho…xinh

Cho đến nay, những di cốt người cổ thuộc các nền văn hóa sớm hơn như Hòa Bình, Bắc Sơn, Đa Bút, Quỳnh Văn (thời đại đá mới) hay muộn hơn như văn hóa Đông Sơn, Hạ Long, Sa Huỳnh, Óc Eo (thời đại kim khí) chưa phát hiện có tục lệ nhổ răng. Tục lệ này mới phát hiện thấy ở thời kỳ Phùng Nguyên.
Theo tài liệu ghi lại, những cư dân thời đại đá mới ở Trung Quốc cũng có tục này. Ở một vài nền văn hóa rất sớm, ở Bắc Phi tục nhổ răng để thể hiện nghi thức nào đó.
Tục nhổ răng không chỉ phát hiện ở châu Á, Australia mà còn ở nhiều đảo của Thái Bình Dương.
Cư dân văn hóa Phùng Nguyên (cách đây khoảng 4.000 năm) còn có tục nhổ răng từ khi là… thanh niên. Có khi họ nhổ cả 4 răng cửa dưới và 2 răng ở hai bên. Có những người "chơi trội" hơn, nhổ tất cả răng cửa gồm 8 cái. "Đây là quan niệm thế là đẹp, thế là thẩm mỹ. Sau khi chụp X-quang, chúng tôi không phát hiện ra mầm răng. Điều này chứng tỏ không phải bệnh tật mà là nhổ răng từ thời trưởng thành" - PGS Lân Cường chỉ vào bức hình hộp sọ không còn chân răng nói.

Tục nhổ răng cho xinh này chỉ thấy xuất hiện ở thời kỳ văn hóa Phùng Nguyên. Sau đó có phát hiện ra ở một số nơi có phong tục nhổ răng khi trưởng thành. Sau này, PGS Lân Cường nghiên cứu thêm mới thấy ở Nhật Bản, Trung Quốc cũng có phong tục này. Hay như ở di chỉ Mán Bạc có phát hiện cái răng mài vát của răng cửa. Đây cũng không phải là vết mòn của răng. Đây cũng là một phong tục của người Việt cổ xưa rất kỳ lạ và "chịu chơi".

Những tập tục như nhuộm răng thì có rất nhiều và kéo dài tới tận thời nay. Nhưng chưa thấy vùng nào người dân lại duy trì tục nhổ hết mảng răng cửa hay mài vẹt hai bên răng cửa cho đẹp như những người dân ở cư dân vùng này. Điều này cũng được PGS Lân Cường đánh dấu nhớ vào một cuốn sổ: Những điều kỳ lạ của người Việt cổ!
Người Việt cổ rất thời trang

Chiếc áo của người Việt cổ có khăn quàng cổ dài nhất lần đầu tiên được tìm thấy.
PGS Lân Cường cho biết, nhìn chung người Việt cổ thấp, chiều cao trung bình chỉ khỏang từ 1,4 - 1,5m nhưng có những ngôi mộ phát hiện được lại cho thấy chiều cao lại từ 1,6 - 1,67m. Như ngôi mộ tìm thấy ở vườn đào Nhật Tân (Hà Nội) năm 2005, chủ nhân chôn trong mộ là một người đàn ông cao 1,62m, gương mặt hình trái xoan khá thanh tú.
Độ tuổi được xác định khi mất khoảng 60-62, thi thể được bảo quản nguyên vẹn. Tóc người đàn ông này được để dài 95cm, buộc dây vải thành lọn phía sau, có nhiều sợi đốm bạc. Toàn bộ thi thể nguyên vẹn có màu da trắng ngà, mặt điểm vết rám đồi mồi.
Điều ngạc nhiên là toàn bộ lục phủ ngũ tạng co vón thành khối trong lồng bụng nhưng bộ phần sinh dục nam lại gần như nguyên vẹn. Ngôi mộ được mở ra có mùi thơm nồng tinh dầu hoàn đàn rủ bám cả vào quần áo, đồ dùng trong mộ. Cũng theo nhiều tài liệu, người xưa đã biết chế những tinh dầu như thế từ các loại cây rừng để dùng ướp xác cho thơm.

Chiếc găng tay đầu tiên của người Việt cổ có đủ 5 ngón
Chiếc áo của người Việt cổ tìm thấy còn lành lặn
"Cuộc sống của người Việt cổ cũng không đến nỗi khốn khó như nhiều người đã nghĩ. Họ chăm chút trang phục, đồ dùng cá nhân rất đẹp. Ví dụ như ngôi mộ này là một điển hình khi người sống trang trí cho người chết cẩn thận" - PGS Lân Cường giới thiệu một bức ảnh tư liệu và kể - "Chủ nhân của ngôi mộ này được mai táng trong tư thế nằm ngửa, đầu hướng về phía đông bắc. Toàn thân mặc nhiều lớp áo và hai chiếc quần, trên thân buộc các nút vải gọn ghẽ, có 7 nút. Ngoài cùng mặc 4 lớp áo lụa tơ tằm phủ suốt thân, áo màu nâu sẫm.
Tiếp theo là 5 lớp áo dài đơn có màu vàng nhạt, cũng bằng lụa tơ tằm. Bên trong là một chiếc áo bằng vải phin có màu xanh sẫm và 9 chiếc áo dài bằng gấm màu nâu nhạt, có thêm nhiều chiếc áo thêu hoa văn rất đẹp. Sát thân là bốn chiếc áo lót ngắn, mỏng, mịn màu vàng nhạt không thêu hoa văn. Phía dưới, chủ nhân được mặc hai lớp quần ngắn lửng, cạp quần viền lớp khá lớn kiểu lá toạ. Vải quần màu vàng nhạt mịn, chất liệu lụa tơ tằm. Hai tay đeo găng bằng gấm có đủ 5 ngón". "Đây cũng là điều lạ khi hàng ngàn mộ trước đó chỉ có thấy túi găng tay, chứ không mộ nào có đủ 5 ngón tay như thế này" - PGS Lân Cường nói.

PGS Lân Cường cho biết thêm, quanh thân mộ chèn nhiều cuộn vải trắng đục, sợi thô dệt ngang, kích thước các cuộn to nhỏ khác nhau. Ngang chân chèn 17 cuộn, khe tay chèn thêm 10 cuộn, khe giữa hai chân là một cuộn dài chạy dọc, hai bên là 21 cuộn nhỏ khác nhau. Trong mộ này còn tìm thấy một cái túi nhỏ đựng 20 chiếc răng nhuộm đen. Đó là một túi gấm nhỏ thêu kim tuyến rất cầu kỳ bằng nửa bàn tay. Miệng túi may gập xuống chứa dây vải để thít miệng túi lại và có 2 hàng rèm, mỗi hàng 4 cánh, xen kẽ chồng kên nhau như những cánh hoa".

"Đấy, qua phần trang phục, quần áo của mộ này, chúng ta thấy họ cũng là những người rất cầu kỳ đấy chứ. Ai bảo người Việt cổ không biết cách chăm lo về hình thức" - PGS Lân Cường kết luận - "Cha ông tổ tiên mình thông minh và khéo tay lắm. Tôi chỉ ví dụ, văn hoa họa tiết của chiếc trống đồng Đông Sơn đó, họ tài tình vẽ những hình rồng bay như thật. Lúc nổi lúc chìm. Chụp rồi in họa tiết đó về làm lại một cái thử như thế, với công nghệ hiện đại như ngày nay còn phải mất hàng tháng, vậy mà còn chưa đẹp bằng tổ tiên mình làm".

Nguồn: Giadinh.net 

Bắt Sấu Rừng U Minh Hạ

Tác giả: SƠN NAM

Nơi sông rạch, cá sấu là giống hung hăng nhứt. Có điều đáng chú ý là chúng không thích những chốn sông sâu nước chảy, có sóng gió. Chúng lên tận ngọn cùng, tìm nơi yên tĩnh, chật hẹp. Vùng U Minh hạ, sấu thường đi ngược sông ông Ðốc, rạch Cái Tàu vào giữa rừng tràm. 
    Tại sao vậỷ Tuy là thích ăn thịt người, loại sấu vẫn tìm cá làm món ăn chánh. Rừng U Minh hạ thuộc về loại trầm thủy(1)cá sanh sôi nẩy nở rất nhanh chóng; lên đó tha hồ mà ăn. 
    Ðến mùa nắng hạn rừng khô, sấu khỏi phải trở về sông Cáị Trong rừng có sẵn nhiều ao, nhiều lung(2), sấu cứ gom vào đó mà lập căn cứ sanh con đẻ cháu, năm này qua năm khác, cứ như vậy cho tới khi người Việt Nam ta đổ tràn xuống rạch Cái Tàu mà lập nghiệp. Ban đầu, họ ngỡ rằng sấu chỉ ở dưới sông, sau khi câu được chừng năm mười con sấu ở ngọn rạch họ đinh ninh cho là sấu đã giảm bớt... Mười phần chết bảy còn bạ Mãi đến khi có người lên rừng ăn ong(3) chạy về loan báo: 

    - Sấu ở giữa rừng nhiều như trái mù u chín rụng! 
    So sánh như vậy, không phải là quá đáng! Dân làng xúm nhau lên rừng để nhìn tận nơị Cái ao lớn ước một công đất, bên bờ, dưới nước, toàn là lau sậy, dây cóc kèn(4). Sấu nổi lên, chen vào những bức tranh mầu xanh ấy những vệt đen chi chít: con thì nằm dài như chiếc xuồng lường (5), con thì dùng hai chân trước mà vạch sậy, ngóng mỏ xéo lên trời như họng súng thần công đại bác. Biết có loài người đến quan sát, chúng vẫn điềm nhiên sưởi nắng, bắt cạ Duy có con sấu già trợn mắt hướng về lũ người rồi bò thối lui vào giữa lòng ao, để thủ thế. Dân làng nhìn nhau như ra lịnh rút luị Nghi ngờ gì nữa! Con sấu nọ có đốm đỏ ngay giữa tam tinh(6). Nó là "sấu chúa" sống lâu đời, nhiều phen kịch chiến với loài ngườị Khi ở trên cạn, sấu không nguy hiểm bằng một con rắn hổ. Sấu chúa khôn lắm, nó toan dụ địch thủ vào hang của nó nơi nước sâụ Trong số người khi nãy, có kẻ cẩn thận mang theo mác thông(7), lao, ná lẫy, nhưng họ dư hiểu rằng mớ khí giới ấy chỉ có hiệu lực đối với cọp, heo rừng. Ðằng này, sấu lại là loài ở nước, ở bùn lầỵ Chống xuồng vào thì ao quá cạn, còn đi bộ xuống thì lún ngập gốị Cái ao sấu ở ngọn rạch Cái Tàu đã bị phát giác. Tin ấy đồn đãi lần lần, thấu đến tai ông Năm Hên, người thợ già chuyên bắt sấu ở Kiên Giang đạo (8), tức là vùng Rạch Giá ngày naỵ ông bơi chiếc xuồng ba lá nhỏ đến địa phận làng Khánh Lâm, ngọn rạch Cái Tàụ Trong xuồng, có vỏn vẹn một lọng nhang trần(9) và một hũ rượụ Từ sớm tới chiều, ông bơi xuồng tới lui theo rạch mà hát:     

    Hồn ở đâu đây Hồn ơi! Hồn hỡi! 
    Xa cây xa cối, Xa cội xa nhành
    Ðầu bãi cuối gành Hùm tha, sấu bắt
    Bởi vì thắt ngặt 
    Manh áo chén cơm 
    U Minh đỏ ngòm, 
    Rừng chàm xanh biếc! 
    Ta thương ta tiếc
    Lập đàn giải oan... 
    Giọng nghe ảo não, rùng rợn. Dân làng thấy chuyện kỳ lạ, xuống đứng dưới bến để nhìn kỹ. Ðoán chừng ông lão nọ là người có kỳ tài, họ mời ông lên nhà, làm thịt gà, mua rượu thết đãị Sau khi tự xưng danh tánh, ông bảo: 

    - Nghe đồn có ao sấu, tôi chẳng nệ đường xa để tới xứ Khánh Lâm nàỵ - Té ra ông thợ câu sấu! 
    ông Năm Hên lắc đầu: 
    - Thợ bắt sấu chớ không phải thợ câụ Hai nghề đó khác nhaụ Câu thì dùng lưỡi sắt, móc mồi bằng con vịt sống. Ðó là ở dưới nước. Ðằng này tôi chuyên bắt sấu trên khô, không cần lưỡị - Vậy chớ ông bắt bằng gì? 
    - Tôi bắt bằng... hai tay không. 
    Ai nấy ngạc nhiên. ông Năm Hên cười giòn: 
    - Bà con cô bác không tin saỏ Ai nấy nửa tin nửa nghị Họ cố nhớ lại cách bắt sấu của mấy người thợ nào đến giờ. Bắt sấu bằng hai tay không quả là phi phàm, thế gian hi hữụ Không lẽ ông Năm Hên này lại nói láo để lường gạt, ổng nào đã mở miệng xin tiền bạc cơm gạo gì của xóm này! Ai nấy nôn nao, thiếu điều muốn năn nỉ ông đi bắt sấu tức thì để coi thử cách thức. 
    - Thưa ông, chừng nào ông ra nghề để cho dân làng chúng tôi được mừng? Nếu cần tiếp giúp chuyện chi, chúng tôi sẵn sàng. ở xóm này thiếu gì trai lực lưỡng đã từng gài bẫy cọp, săn heo rừng. 
    ông Năm Hên đáp: 
    - Sáng mai sớm, đi cũng không muộn. Tôi cần một người dẫn đường đến ao cá sấu đó. Có vậy thôi! Chừng một giờ đồng hồ sau là xong chuyện! Sấu ở ao giữa rừng, tôi bắt nhiều lần rồị Bà con cứ tin tôị Xưa nay, bị sấu bắt là người đi ghe xuồng hoặc ngồi rửa chén dưới bến, có bao giờ sấu rượt người ta giữa rừng mà ăn thịt? Tôi đây không tài giỏi gì hết, chẳng qua là biết mưu mẹo chút ít, theo như người khác thì họ nói đó là bùa phép để kiếm tiền. Nghề bắt sấu có thể làm giàu được ngặt tôi không mang thứ phú quới đó. Nói thiệt với bà con: cha mẹ tôi sanh ra chỉ có hai anh em tụi tôị Anh tôi xuống miệt Gò Quao phá rừng lập rẫy hồi mười hai năm về trước. Sau được tin cho hay: ảnh bị sấu ở Ngã ba Ðình bắt mất. Tôi thề quyết trả thù cho anh. Cực lòng biết bao nhiêu khi nghe ở miệt Rạch Giá, Cà Mau này có nhiều con rạch, ngã ba, mang tên Ðầu Sấu, Lưng Sấu, Bàu Sấu, sau này hỏi lại tôi mới biết đó là nơi ghê gớm, hồi xưa lúc đất còn hoang. Rạch Cà Bơ He, đó là chỗ sấu lội nhiều, người Miên sợ sấu không dám đi qua nên đặt tên như vậy, cũng như phá Tam Giang, truông nhà Hồ của mình ngoài Huế.     
Sáng hôm sau, ông Năm Hên đi lên ao sấu, có Tư Hoạch một tay ăn ong rất rành địa thế vùng Cái Tàu dẫn đường. Nhiều người nài nỉ xin đi theọ ông Năm Hên cản lại: 
    - Ði nhiều chộn rộn lắm. Tôi không giấu nghề với bà con đâụ Có Tư Hoạch đi theo coi mạ Ðã quá giờ ngọ. 
    Ngóng về phía ao sấu U Minh hạ, ai nấy đều thấy một làn khói đen bốc lên. Ban đầu ngỡ là cháy rừng, chập sau, khói lụn xuống. Trong lúc đó, bà con xóm Cái Tàu lo nấu cơm, mua rượu đợi chiều làm tiệc ăn mừng. Nhưng ngạc nhiên làm sao, trời về xế, lúc ai nấy đang nghỉ trên nhà, bỗng nghe tiếng kêu réo từng hồi: 
    - Bà con ơi! Ra coi sấụ Bốn mươi lăm con còn sống nhăn. 
    Rõ ràng là giọng Tư Hoạch. 
    - Diệu kế ! Diệu kế! Tôi là Tư Hoạch đi bắt sấu về đâỵ Bà con coi sấu lội có hàng dưới sông mình nè! Một đời người mới có một lần.     
Dưới sông, Tư Hoạch ngồi trên xuồng, bơi nhè nhẹ như đi dạo mát.     
Tiếp theo lái xuồng là một bầy sấu, con này buộc nối đuôi con kia, đen ngòm như khúc cây khô dàị Mỗi con sấu, hai chân sau thúc kê trên lưng, hai chân trước tự do, quạt nước cầm chừng như tiếp sức với Tư Hoạch để đẩy chiếc bè quái dị kia đi nhẹ nhàng. Thực tế hay là chiêm baỏ Người thì đứng há miệng sửng sốt rồi toan chạy vào nhà trốn. Người khác khấn vái lâm râm, e nay mai xóm này bị trừng phạt của quỷ thần. Vài người dạn hơn, bơi xuồng ra giữa sông, nhìn bầy sấu nọ cho tỏ rõ rồi rước Tư Hoạch vào bờ hỏi han rối rít. 
    Ðại khái Tư Hoạch trình bày: 
    - Tới ao sấu, ông Năm Hên đi vòng quanh dòm địa thế rồi ngồi xuống uống một chung rượụ Kế đó ổng với tôi lấy xuổng(10) đào một đường nhỏ, ngày một cạn, từ ao lên rừng chừng mười thước. Xong xuôi, ông biểu tôi bứt cho ổng một nắm dây cóc kèn. Phần ổng thì lo đốn một đống cây mốp tươi(11), chặt ra khúc chừng ba tấc.     
Lửa châm vô sậy đế, cóc kèn xung quanh, bắt cháy xuống đám sậy đế trong aọ Chập sau, bị khói bay cay mắt, ngộp thở, phần thì nước sôi nóng, sấu bò lên rừng theo con đường đào sẵn hồi nãỵ Tức thời, ông Năm Hên chạy lạị Sấu há miệng hung hăng đòi táp ổng. ổng đút vô miệng sấu một khúc mốp. Sấu táp lại, dính chặt hai hàm răng: như mình ngậm một cục mạch nha quá lớn, muốn há miệng cho rộng để nhả ra cũng không được. Sau khi bị khúc mốp khóa miệng, còn cái đuôi đập qua đập lạị ông Năm Hên xách cây mác nhắm ngay sau lưng sấu mà xắn nhè nhẹ để cắt gân đuôị Ðuôi sấu bị liệt. Thế là mình yên trí, lấy dây cóc kèn trói thúc ké hai chân sau của nó lại, chừa hai chân trước để nó bơi tiếp với mình. 
    - Thực là bực thánh của xứ này rồi! Mưu kế như vậy thực quá cao cường. ổng đâu rồỉ Sao không thấy ổng vể Xóm mình nhất định đền ơn ổng một số tiền, nuôi ổng cho tới già, ở xóm nàỵ Bà con tính saỏ Tư Hoạch nói: 
    - Mà quên! ổng biểu tôi về trước cho bà con coi thử. Phần ổng mắc ở lại cúng "đất đai vương trạch" (12) rồi đi bộ về saụ Chưa dứt lời, bên sông nghe tiếng hát của ông Năm Hên, ngày một rõ:     

Hồn ở đâu đây Hồn ơi! Hồn hỡi! 
    Xa cây xa cối, Xa cội xa nhành
    Ðầu bãi cuối gành Hùm tha, sấu bắt
    Bởi vì thắt ngặt 
    Manh áo chén cơm 
    U Minh đỏ ngòm, 
    Rừng chàm xanh biếc! 
    Ta thương ta tiếc
    Lập đàn giải oan... 
Tiếng như khóc lóc, nài nĩ. Tiếng như phẫn nộ, bi aị Ghê rợn nhứt là khi thấy ông đi ra khỏi mé rừng, áo rách vai, tóc rối nùi, mắt đỏ ngầu, bó nhang cháy đỏ quơ qua quơ lại trên taỵ - Coi tướng của ổng ghê như tướng thầy pháp! Một người thốt lên như vậỵ Nhưng có tiếng khóc sụt sùi đâu đâỵ Ðó là vài cụ già, bà lão chạnh nhớ đến tổ tiên, đến bạn bè của mình, biết đâu trên bước đường sanh nhai giữa chốn nước đỏ rừng xanh, có thân nhân của họ đã bỏ thân vì đàn sấu nàỵ Bó nhang đang cháy kia có giải oan được cái chết của họ không chớ?      

    Chú thích: 
    1.Trầm thủy: Loại đất thấp ngậm nước. 
    2.Lung: đầm nhỏ, sình lầy cạn 3.Ăn ong: lấy mật ong trong rừng 4.Dây cóc kèn: loại cây dây leo ở rừng nước mặn bền chắc, dùng để trói buộc rất tốt. 
    5.Xuồng lường: xuồng được làm bằng một cây đục thành (xuồng độc mộc) 6.Tam tinh: điểm ở trán, giữa hai mắt. 
    7.Mác thông: mác có cán dàị 8.Kiên Giang đạo: đạo là đơn vị hành chính thời xưa tương đương một châu, một quận. 
    9.Lọn nhang trần: bó (lọn) nhưng không có bao (trần). Nhà nghèo dùng loại nhang này, vì rẻ tiền. 
    10.Xuổng: thuổng (dụng cụ để đào đất). 
    11.Mốp tươi: loại cây như cây vông, gỗ xốp, dẻo, có thể làm nút chai hay cốt mụ Cá sấu ngậm phải khúc gỗ mốp, hai hàm răng dính chặt không há miệng ra được nữạ 12.Cúng "đất đai vương trạch": cúng thần cai quản đất đai (vương trạch, thực ra là viên trạch, nghĩa là vườn đất, dân gian nói trệch ra là vương trạch)

Nguồn vietfun.com