Thứ Năm, 25 tháng 12, 2014

NÉT ĐỘC ĐÁO CỦA THẬP BANG BINH KHÍ

Tác giả: P.N

Đã là người xứ “Nẫu” có lẽ không ai không biết và tự hào về miền đất võ Bình Định. Với hệ thống võ đạo, võ lý được xây dựng từ các quy chuẩn đạo đức và kiến thức khoa học, võ Bình Định đã để lại dấu ấn sâu đậm trong đời sống tinh thần, góp phần hun đúc khí phách anh hùng, truyền thống thượng võ của người Bình Định dọc tiến trình lịch sử. Cho đến nay, Bình Định có rất nhiều bài quyền, bài roi còn lưu lại khá nghiêm túc về lai lịch. Với bài viết này, chúng tôi đi vào tìm hiểu, thống kê các loại binh khí mà dân gian thường gọi Thập bát bang (18 bang) binh khí của võ cổ truyền Bình Định.
1. Côn (roi)
Binh khí này thông thường làm bằng gỗ, tre, mây, cũng có khi làm bằng kim loại, nhưng thông thường được làm bằng gỗ kiềng kiềng hoặc bằng cây tre dài; chia làm hai loại: đoản côn và trường côn.
Roi ngắn được gọi là “đoản côn”, là loại roi có chiều dài từ 1,50 mét đến 1,8 mét. Cả cây roi có độ to đều nhau, có thân tròn với đường kính từ 2,5 centimét đến 3,5 centimét. Đoản côn được sử dụng đánh cả hai đầu rất đắc dụng trong chiến đấu nên gọi là “roi chiến”. Các lò võ ở Bình Định hiện nay ngoài võ tay không (quyền), trong 18 môn binh khí thì đoản côn là thông dụng nhất. Mỗi võ sĩ, võ nhân, võ sư đều thông thạo các bài thảo (có lời thiệu) như: Thái sơn, Ngũ môn, Tứ môn, Trực chỉ, Đoản côn, Thất bộ, Tề mi…
Trong đoản côn có “tề mi côn”. Tề mi côn là binh khí của từng người, không phổ biến cho một võ đường, bởi lẽ tùy theo vóc dáng cao thấp, khi dựng đứng cây côn tính từ dưới đất lên đến đôi lông mày của từng người, gọi tề mi côn là vì vậy.
Xin nói thêm, có một số người sử dụng một cây đoản (tiếng địa phương là “đản”) chỉ dài khoảng
40 centimét đến 60 centimét. Theo chúng tôi thì từ “côn” dùng để chỉ cây roi dài từ 1,50 - 1,80 mét; còn cây ngắn, chỉ dài từ 40 centimét đến 60 centimét, không thể xếp vào loại hình roi nên không thể gọi là côn. Cũng cần lưu ý là có một số địa phương đã gọi loại binh khí đó là cây “đoản” nên không thể nhầm lẫn giữa “đoản côn” với cây “đoản”.
Roi dài được gọi là “trường côn” (còn gọi “trường tiên”), là loại roi có chiều dài từ 3 mét đến 3,5 mét chưa kể phần nùi tóc bó vải ở đầu roi, có phần gốc tròn đường kính khoảng 3 centimét, nhỏ dần lên phần ngọn đường kính chỉ còn khoảng 2 centimét. Roi trường là loại binh khí được dùng để thi đấu trong các kỳ thi võ của triều đình xưa nên còn có tên gọi là “roi đấu”. Hai người đấu với nhau, mỗi người cầm một cây roi. Tay sau cầm cuối đầu to, nơi được gọi là đốc roi, tay trước cầm ở phần thân roi. Ngọn roi là phần đầu nhỏ được dùng để đâm vào đối phương. Những thủ pháp cơ bản trong đấu roi trường là đâm, bắt, lắc, tém. Roi trường làm bằng gỗ, nên thủ pháp sử dụng roi trường không có các đòn quơ, phang ngang, phang xéo hoặc bổ xuống, vì roi gỗ sẽ bị gãy. Để hạn chế sự nguy hiểm và phân định thắng thua trong thi đấu, ngọn roi được bọc bằng một nùi tóc có vải dày bao ở ngoài. Khi thi đấu, nùi tóc có bọc vải được nhúng vào nước hòa tan lọ nồi (cũng có khi nhúng vào mực Tàu). Sau một khoảng thời gian thi đấu theo quy định, ai bị nhiều dấu lọ nồi trên người thì người đó bị xử thua. Theo lời các thầy kể lại thì khi thi đấu roi trường, thí sinh không được đâm, đánh vào đầu đối phương với lý do là tránh “phạm Tổ”, ngoài ra không nói rõ những quy định gì khác.
Cho đến ngày nay chỉ có roi ngắn (được gọi là đoản côn, đản côn, tề mi côn, trung bình tiên, roi chiến) là còn được lưu truyền hầu như khá đầy đủ, còn roi dài là roi trường (được gọi là trường côn, trường tiên, roi đấu) thì có thể nói là đã thất truyền vì không còn thấy sử dụng nữa.
2. Kiếm
Kết cấu binh khí này gồm chuôi kiếm, lưỡi kiếm và bao kiếm. Phần lưỡi dài, phiến dẹt, bề rộng chừng 3 - 4cm, cạnh mảnh và cực bén, rèn bằng kim loại tốt như sắt, thép, hợp kim. Phần cán (chuôi) bằng gỗ, có khi cán cũng được đúc bằng kim loại hoặc mạ vàng, hay chạm trổ rất đẹp. Vỏ kiếm được chế tạo cũng bằng kim loại mỏng và cứng, hoặc những loại gỗ quý dùng để bao ngoài lưỡi kiếm, một đầu kín một đầu hở khi gài vào ăn khớp với cổ chuôi kiếm. Kiếm thuộc hàng vũ khí thanh nhã, sang trọng, được rèn theo yêu cầu của người sử dụng. Thường phải đảm bảo ba yếu tố: sắc, đẹp, có độ nặng, độ dài phù hợp với sức vóc người cầm.
Kiếm lệnh là kiếm chỉ huy, lược trận, phân biệt với kiếm trận ở chỗ kiếm lệnh lưỡi cong ngắn, còn kiếm trận lưỡi thẳng dài. Tùy theo độ dài ngắn mà phân thành trường kiếm hay đoản kiếm. Trường kiếm độ dài xê dịch trong khoảng 1,2m đến 1,5m, có thể giao tranh trên mặt đất hoặc trên ngựa đều tiện lợi. Đoản kiếm là kiếm ngắn, từ chuôi đến ngọn dài chừng năm, bảy tấc, thích hợp với lối đánh cận chiến, giáp chiến. Thường con nhà võ chỉ tuốt kiếm khỏi bao khi giao đấu. Trong giao đấu, vỏ kiếm cũng là một vũ khí để đánh, đỡ, gạt, hất rất lợi hại. Tuy vậy, cũng có không ít những thanh kiếm để trần.
Thời chống Pháp trở về trước, kiếm là môn binh khí rất phổ biến trong võ thuật Bình Định. Nữ tướng Bùi Thị Xuân chuyên đánh song kiếm. Ở Bảo tàng Quang Trung hiện còn lưu bức tranh Bà cưỡi voi trận, tay cầm song kiếm, uy phong lẫm liệt.
3. Kích
Kích là binh khí dài, cán bằng gỗ cứng hoặc đúc bằng kim loại nặng. Phương thiên họa kích có một mũi nhọn ở giữa giống ngọn giáo, hai bên là hai vành đao lưỡi liềm day lưng vào nhau. Bán thiên kích thì chỉ có mũi nhọn với một vành đao lưỡi liềm. Kích nặng ở đầu nên sử dụng không được linh động như thương. Phương thiên họa kích và bán thiên kích gọi là độc kích. Song kích có cán như độc kích nhưng hai đầu kích đều có lưỡi kích giống nhau, lưỡi của song kích giống như lưỡi đao nhưng dài và nhỏ hơn, đường sống của lưỡi kích có cạnh răng cưa, tra hai lưỡi vào cán ngược chiều.
4. Chùy
Chùy là loại binh khí có tay cầm ở giữa là một thanh gỗ cứng hoặc kim loại, hai đầu là hai khối kim loại (sắt, thép, đồng) đặc ruột hình thuẫn hoặc hình tròn, ngoài mặt đúc nổi gai lục giác hoặc xẻ cạnh khế. Bề ngang có đường kính chừng 10 – 15cm. Chùy cũng có chùy đơn và chùy đôi. Chùy đơn cán dài như cán giáo còn gọi là trường chùy, chùy đôi là song chùy, cán ngắn độ 0,40 m đến 0,50 m
5. Đao
Binh khí này có cán bằng gỗ cứng, lưỡi đao càng về phía trước càng to bản, được vát hơi cong dần về phía mũi. Về chủng loại có đơn đao, song đao, đại đao, phác đao. Đại đao là vũ khí nặng, cán dài. Người sử dụng đại đao phải có sức vóc hơn người. Triều Tây Sơn có bốn người nổi tiếng về đại đao là Nguyễn Huệ, Võ Văn Dũng, Trần Quang Diệu và Đặng Văn Long. Đặc biệt là Võ Văn Dũng, tài sử đao của ông được Nguyễn Nhạc khen ngợi: “Phá sơn trung tặc dị, thắng Văn Dũng đao nan” nghĩa là Phá giặc trong núi dễ, thắng ngọn đao Văn Dũng mới khó.
6. Xà mâu
Xà mâu là loại binh khí dài, nhọn, phần trên cùng đúc kim loại uốn khúc như hình rắn. Tác dụng của xà mâu là móc, đâm, giật.
7. Đinh ba
Đinh ba là loại binh khí cán dài, một đầu tra lưỡi sắt có ba răng nhọn xỉa thẳng về trước. Đinh ba vận dụng các chiêu thức của côn, thiên về phóng, đâm, xóc. Cây nạn trong dân gian cùng sử dụng những chiêu thức như cây đinh ba, nhưng làm bằng gỗ hoặc tre.
8. Thương
Thương là loại binh khí dài có cán làm bằng gỗ cứng, ở đầu có mũi hình thoi nhọn đúc bằng sắt. Cách dùng côn và thương về căn bản giống nhau, nhưng côn thiên về đả, còn thương thiên về đâm.
9. Bồ cào
Cũng là binh khí cán dài, một đầu tra lưỡi sắt hình răng lược, giống như cái cào cỏ ở nông thôn Bình Định. Bồ cào cũng vận dụng chiêu thức của côn nhưng lại thiên về đập, giật.
10. Dải lụa đào
Dải lụa đào dài khoảng 1,2m, rộng  khoảng 0,5m. Thường có gắn trái trả mỗi đầu dải lụa một hòn bi bằng kim loại nhỏ như quả cà cưỡng. Nếu dải lụa không gắn bi thì khi giao đấu phải thấm nước mỗi đầu một góc khăn (chéo nhau) để có độ nặng. Dải lụa dùng đỡ, bắt binh khí đối phương, hoặc quật giật ngã đối thủ, nếu phất, quất cũng gây sát thương. Tuy là dải lụa nhưng rất lợi hại. Các lão võ sư xưa thường vắt khăn xéo khi đi đường để phòng thân (trong dân gian có tên là võ khăn), võ khăn xéo cũng chính là võ dải lụa đào.
11. Thái long câu
Thái long câu là một binh khí, tương truyền có từ thời An Dương Vương cho đến thời Trần thì thất truyền. Đến đời Tây Sơn được phục hồi và dùng rộng rãi trong hàng ngũ nghĩa quân Tây Sơn, hiện nay đã thất truyền. Thái long câu có cán như cán giáo nhưng dài chỉ 0,6m, lưỡi hình bán nguyệt, răng cưa đều ở phần lưỡi, độ dài của lưỡi (theo đường cong) là 0,6m. Hình thức sử dụng Thái long câu là bổ, dật, chém rất lợi hại. Trong dân gian sử dụng rựa quéo, câu liêm là theo các hình thức của Thái long câu xưa.
12. Liên tri (dây xích)
Liên tri là loại dây xích làm bằng vải dù, kim loại, dài khoảng 2,2 m đến 2,5m, gắn hai quả chùy ở hai đầu dây, mỗi quả nặng khoảng 0,3kg. Liên tri là một binh khí lợi hại dùng để đánh từ xa, hoặc quất, giật đối thủ.
13. Giản
Giản thường làm bằng gỗ quí, có độ dài từ 0,8m đến 1m. Cán ngắn khoảng 0,2m, có độ lớn vừa tầm nắm của bàn tay. Thân Giản từng đốt hình cạnh khế, nhỏ dần từ cán đến đầu Giản. Giản là một trong những loại binh khí hiện nay không còn thông dụng. Ngày xưa trong sách và các tư liệu để lại là loại binh khí thường được nhà vua ban cho các đại thần có công lớn.
14. Thiết lĩnh
Thiết lĩnh là loại binh khí của thời Tây Sơn, một gậy (như đoản côn) một đầu gậy có nối một đoạn dây khoảng 0,35m, cuối đoạn dây có nối một đoản khúc vuông dài chừng 0,30m; Thiết lĩnh là loại binh khí rất lợi hại: gậy sử dụng như côn; cầm phía gậy mà sử dụng đoản khúc có thể đánh giật chân đối phương hoặc chân ngựa của đối phương, cướp vũ khí của đối thủ.
15. Giáo
Cũng là loại binh khí dài khoảng 2 - 2,5m bằng một loại tre đực đặc ruột hoặc gỗ quí có đầu vót nhọn dẹp, bịt kim loại, hoặc một lưỡi bằng kim loại tra vào cán, dùng trong trận mạc. Trong dân gian thường dùng để đi săn thú rừng. Cách đánh như côn, nhưng lợi thế hơn ở chỗ có mũi nhọn để đâm, lách. Tương truyền đây là vũ khí đắc dụng của nghĩa binh Mai Xuân Thưởng, vì vùng nông thôn Bình Định rất sẵn tre, gỗ.
16. Lăn khiên
Lăn khiên là một tấm chắn bằng gỗ hoặc đan bằng cật tre, mây, dùng để che chắn tên hoặc vũ khí trong khi giao chiến, nhất là trong đánh trận, công thành. Nghĩa quân Tây Sơn rất thành thạo môn lăn khiên - một tay cầm khiên để hứng tên bắn từ xa hoặc đỡ gươm giáo khi đánh xáp lá cà, trong khi tay kia sử dụng một vũ khí khác để tấn công kẻ địch.
17. Cung tên
Cung đầu tiên là công cụ săn bắn, sau mới thành vũ khí chiến đấu. Thân cung và hai cánh cung làm bằng gỗ cứng, có khi là gốc tre lâu năm. Giữa thân cung có rãnh lắp tên. Đầu hai cánh cung được khoét lỗ tròn hoặc đính khuy sắt để căng dây cung. Dây cung thường làm bằng gân trâu hoặc một loại sợi đặc biệt dẻo và cứng, có tính đàn hồi cao, khi kéo mạnh sẽ làm cánh cung cong lại, tạo sức bật đẩy mũi tên bay xa. Tên làm bằng gỗ cứng hoặc tre già, mũi vót nhọn. Về sau, người ta bịt kim loại ở đầu mũi tên hoặc đúc tên sắt, tên đồng để tăng hiệu lực, xuyên thủng được vật cứng.
Môn bắn cung phải qua nhiều giai đoạn tập luyện: giương cung, nhắm đích, quỳ bắn, đứng bắn, dưới đất, trên ngựa. Mục tiêu bắn cũng đa dạng: từ gần tới xa, từ diện đến điểm, từ cố định đến di động. Lại được dạy các mánh khóe đánh lừa kẻ địch như giương đông kích tây, giương nam kích bắc v.v.  Người bắn cung giỏi có thể bắn chim đang bay, hoặc còn nói trước được mình sẽ bắn rơi con thứ mấy trong đàn. Nổi danh về bắn cung ở Tây Sơn xưa từng có La Xuân Kiều, Đặng Xuân Phong, Lý Văn Bưu.
18. Búa (phủ)
Búa là loại binh khí gần giống với rìu chặt cây của tiều phu. Cán búa làm bằng gỗ cứng dài chừng một cánh tay. Lưỡi búa đúc hoặc rèn bằng sắt, thép tốt, rất nặng. Búa đơn gọi là độc phủ, hoặc trường phủ có cán dài như cán đại đao; búa đôi có cán ngắn gọi là song phủ. Những chiếc búa đặc biệt trên sống còn được chạm đầu hổ hay đầu rồng rất tinh vi, gọi là hổ đầu phủ hoặc long đầu phủ. Chiêu thức của song phủ gồm các đòn ngắn, mạnh, trực diện, khả năng sát thương kẻ địch rất lớn, thích hợp với lối đánh thấp, cận chiến, trên bộ. Người sử dụng song phủ phải có sức lực hơn người, thân pháp cực kỳ mau lẹ.

(Xin cáo lỗi cùng tác giả bài viết, do quá trình lưu tài liệu ban đầu chưa có kinh nghiệm tôi đã không ghi chú lại nguồn cẩn thận, nên bài viết này tôi không thể ghi nguồn tài liệu.)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét