Lễ hội đền Hai Bà Trưng ở Hát Môn, Phúc
Thọ (Hà Nội)
10:59:38 NGÀY
26/06/2014
Ngày nay, nhân dân ở nhiều nơi tổ chức lễ hội để tưởng nhớ công
lao, tài đức, khí phách của Hai Bà Trưng với các nghi lễ khá tương đồng. Tuy
nhiên, lễ hội đền Hai Bà Trưng ở xã Hát Môn, Phúc Thọ (Hà Nội) vào ngày hóa của
Hai Bà (6/3 âm lịch) lại có những nét riêng, hết sức độc đáo.
Thánh tích độc đáo
Hát Môn là một làng cổ, nằm ngay cửa sông Hát (sông Đáy). Nằm kề chân đê là đền thờ Hai Bà Trưng. Truyền lại, đền có từ thời tiền Lê, diện mạo hiện tại của ngôi đền mang dấu vết từ thế kỷ thứ XIX. Ngay chân đê là cổng đền với các bậc thềm đi xuống. Hai bên cổng có hai cột trụ với hai câu đối nổi tiếng:
Đồng trụ chiết hoàn Giao Lĩnh trĩ
Cẩm Khê doanh hạc Hát giang trường
tạm dịch:
Đồng trụ gãy hay còn, núi Lĩnh Nam đời đời cao ngất
Cẩm Khê vơi hay đầy, dòng Hát Giang mãi mãi vươn dài
Đền chính tọa lạc trên một gò đất tứ linh đẹp và linh thiêng, sân trước nhà đại bái rất rộng có hai bàn thờ, sau hai bàn thờ có cây si. Tương truyền rằng, hai bàn thờ này thờ hai người lính gác hai cây muỗm trước sân đền, hai cây muỗm này vốn có từ thuở Hai Bà Trưng?
Tại nhà bái đường có bức hoành phi với bốn chữ "Lạc Hùng chính thống" nhằm ca ngợi sự nghiệp của Hai Bà Trưng đã nối lại nền chính thống của các vua Hùng. Ở hậu cung không có tượng mà chỉ có bài vị của Hai Bà Trưng. Các cụ già trong làng kể rằng, xưa kia, đền vẫn có tượng Hai Bà Trưng đặt trong hậu cung, hàng năm cứ đến 23, 24 tháng chạp, người làng rước tượng Hai Bà Trưng ra tắm ở nhà Dội. Năm 1883, thực dân Pháp, sau khi chiếm Hà Nội, đã kéo đến vây ráp Hát Môn, cướp hai pho tượng đem đi. Cùng năm ấy, rất nhiều tượng ở Hà Nội bị mất, trong đó có tượng Hai Bà Trưng ở đền Đồng Nhân. Thành ra, từ ấy, tại đền này, người dân đặt bài vị vào điện thờ Hai Bà Trưng mà không có tượng!
Theo huyền tích, Hai Bà Trưng là cháu chắt ngoại của dòng dõi Hùng Vương. Quê mẹ của Hai Bà ở thôn Nam An, xã Canh Thiên, huyện Ba Vì. Quê cha của Hai Bà ở Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, tỉnh Vĩnh Phúc. Bà Man Thiện, thân mẫu của Hai Bà góa chồng từ rất sớm nhưng rất chú trọng dậy con theo tinh thần yêu nước và thượng võ.
Trưng Trắc lớn lên, là một phụ nữ đảm đang, mưu trí. Bà lấy chồng là Thi Sách, con trai một Lạc tướng, người Chu Diên. Cùng chồng và em gái đang lo nghiệp lớn thì Thi Sách bị thái thú Tô Định giết chết, Trưng Trắc không mềm lòng. Nợ nước, thù nhà khiến bà quyết tâm khởi nghĩa đánh đổ chính quyền đô hộ phương bắc, khôi phục nền độc lập của đất nước. Truyền thuyết dân gian kể, khi ra trận, Bà cởi bỏ khăn tang để yên lòng quân sĩ. Ước vọng chiến đấu của Bà đã được “Thiên Nam ngữ lục”, một tác phẩm cuối thế kỷ XVII, ghi lại bằng lời thề:
"Một xin rửa sạch quốc thù.
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng.
Ba kẻo oan ức lòng chồng.
Bốn xin vẹn vẹn sở công lênh này".
Truyền thuyết vùng Hà Nội kể: sau khi chết, khí anh linh của Hai Bà Trưng kết thành tượng đá, theo dòng nước trôi xuôi, mãi đến thời Lý mới đến vùng Thăng Long. Một đêm đầu tháng hai âm lịch, hai pho tượng đã tỏa sáng trên dòng sông Nhị trước bãi Đồng Nhân, dân làng lấy vải đỏ làm lễ buộc tượng đón các Bà vào. Dân gian truyền rằng tượng đá có cái thế hai tay giơ cao như đang rẽ nước tiến lên, đầu đội mũ trụ, thân mặc áo giáp.
Trong tâm thức dân gian, người dân không chịu để Hai Bà Trưng tự vẫn ở sông Hát mà người ta truyền rằng Hai Bà hi sinh ở chiến trường, máu Hai Bà thấm đỏ non sông. Bởi vậy, toàn bộ đồ thờ ở đền Hát Môn đều sơn màu đen, kiêng màu đỏ. Hàng năm, người đến tế lễ cũng như dự hội hè ở Hát Môn đều không được ăn vận quần áo, trang phục màu đỏ. Nếu có phải để ở ngoài đền.
Sông Hát là nơi Hai Bà gieo mình tự vẫn để bảo toàn khí tiết vào ngày 6/3
năm Quý Mão (năm 43 sau Công nguyên). Vì thế, đền thờ Hai Bà Trưng ở Hát Môn được coi là nơi thánh
tích, đền thờ Hai Bà Trưng ở phố Đồng Nhân (quận Hai Bà Trưng) được coi là nơi
hiển tích, còn đền Hai Bà Trưng ở Mê Linh là nơi Hai Bà sinh ra và đóng đô.
Đền Hai Bà Trưng ở Hát Môn rộng tới hơn 3 ha, tọa lạc trên khu
đất cổ có thế long chầu hổ phục. Theo sách "Việt điện u linh" và
"Lĩnh Nam chích quái" thì đền được xây dựng sau khi Hai Bà Trưng hóa
thân vào cõi bất diệt, do đó đây là ngôi đền cổ nhất trong hệ thống đền thờ Hai
Bà. Qua nhiều lần trùng tu, hiện nay đền gồm các hạng mục: Quán Tiên, cổng tứ
trụ, nghi môn, đền chính… Trong đền có nhiều đồ thờ quý giá.
Đại lễ dâng bánh trôi
Dân xã Hát Môn cử hành tới 3 lễ hội trong một năm.
Ngày Mồng 6 Tháng Ba - Đền mở cửa, thắp hương tế lễ. Cả làng cùng làm bánh trôi để dâng cúng. Người dân ở đây còn gọi bánh trôi là bánh tù tì. Bánh trôi ở Hát Môn được nặn theo hình quả trứng. Để dâng Hai Bà Trưng bánh được nặn đúng 100 viên rất nhỏ và sau khi tế thần xong dân làng đem 49 viên đặt vào lòng một bông hoa sen thả ra sông Hát để trôi ra biển, người ta nhìn những viên bánh trôi trôi đi.
Trong khi cúng tế Hai Bà Trưng, dân xã Hát Môn không quên Bà hàng nước. Họ cũng dâng bánh cúng bà. Dân làng Hát Môn không bao giờ và không ai dùng bánh trôi nước trước ngày mồng 6 tháng ba.
Ngày hôm đó, trong khi ở đền cúng Hai Bà Trưng, tại các tư gia người ta cũng làm bánh trôi để cúng tổ tiên, và chỉ sau những cuộc lễ này, người ta mới ăn bánh trôi.
Món bánh này, đối với dân làng Hát là một thứ bánh Thánh, Thánh hưởng thụ rồi dân mới ăn. Nếu chưa đến ngày mồng 6 tháng 3, người dân Hát Môn dù có đi đâu, được bạn bè mời ăn bánh trôi cũng không bao giờ họ ăn. Đây là do lòng thành kính của họ đối với Hai Bà Trưng, chưa đến ngày giỗ Hai Bà Trưng, Hai Bà Trưng chưa hưởng, họ chưa ăn. Và họ cũng muốn nhớ lại cử chỉ cao đẹp của bà hàng bánh trôi, dù nghèo khổ đến đâu cũng dâng bánh lên Hai Bà, trước khi Hai Bà xuất trận
Ngày Mồng 4 Tháng 9 - Đây là ngày Hai Bà Trưng khao quân khi vừa rút quân ở Tây Hồ về. Trong ngày này dân làng kéo cờ đại, giết trâu, giết bò, lợn, dê để tế Hai Bà.
Gắn với thánh tích, Lễ hội đền Hai Bà Trưng ở Hát Môn có những
nét khác biệt so với nơi khác. Mọi thứ trong đền thờ đều đi đôi: Hai hương án,
hai long ngai, hai kiệu rước, hai lư hương và khi tiến hành đại lễ thì có hai
chủ lễ, hai người đọc chúc văn…
Cũng từ tích Hai Bà ăn bánh trôi trước khi tuẫn tiết, Lễ hội Hai
Bà Trưng trong ngày 6/3 âm lịch còn có đại lễ dâng bánh trôi. Ông Nguyễn Quốc
Thắng, Chủ tịch UBND xã Hát Môn cho biết: Theo phong tục, hằng năm bô lão trong
làng chọn nhà của một gia đình hòa thuận, đủ đầy làm nhà chứa lễ để các cụ cao
niên đến làm bánh trôi, từ trưa ngày 5 đến rạng sáng ngày 6/3. Gạo làm bánh
phải là nếp cái hoa vàng, thơm ngon, nước làm bánh được lấy từ giếng thiêng
trong làng (gọi là nước chí thành). Bánh được làm hết sức công phu, khi chín có
màu trắng, trong, tròn, không nát. Sáng sớm ngày 6/3, dân làng tập trung tại
nhà chứa lễ và rước bánh về đền làm lễ tế.
Ông Nguyễn Quốc Thắng cho biết thêm: Những năm gần đây, ngoài
việc làm bánh dâng Hai Bà, Hội Phụ nữ xã còn tổ chức hội thi làm bánh trôi vào
ngày 6/3 để tuyên truyền, giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ. Khi làm xong,
các đội tập trung về UBND xã và tổ chức thành đội rước bánh ra đền trong tiếng
nhạc hội vui tươi, náo nhiệt.
Người ta nói rằng đã là người Hát Môn thì dẫu đi Nam về Bắc hay ra nước ngoài đều kiêng không ăn bánh trôi từ ngày 5/9 năm trước đến ngày 5/3 âm lịch năm sau. Đến sáng ngày 6/3, sau khi làm lễ dâng bánh trôi cúng Hai Bà, các gia đình mới cúng tổ tiên và thưởng thức bánh vào chiều hôm đó.
Người ta nói rằng đã là người Hát Môn thì dẫu đi Nam về Bắc hay ra nước ngoài đều kiêng không ăn bánh trôi từ ngày 5/9 năm trước đến ngày 5/3 âm lịch năm sau. Đến sáng ngày 6/3, sau khi làm lễ dâng bánh trôi cúng Hai Bà, các gia đình mới cúng tổ tiên và thưởng thức bánh vào chiều hôm đó.
Lễ Mộc dục - 24 tháng Chạp
Ngày 24 Tháng Chạp - Đây là ngày hội lớn nhất trong năm của xã Hát Môn. Trong ngày hội này, hàng ngàn trai gái trong làng được vận động để chia thành hai đạo binh tiền hậu. Và hội, nam binh nữ binh có đồng phục riêng.
Tám cô trinh nữ nhan sắc được lựa chọn để theo sau hầu kiệu Hai Bà.
Cắt đặt xong mọi người phải tập dượt hàng tuần trước. Nửa đêm hôm 24 tháng chạp, nghe tiếng trống làng thanh niên, thanh nữ tập họp thành từng đội các chân cờ, chân kiệu, các hiệu trống, hiệu chiêng và các chân vác tàn lọng đã đứng vào hàng.
Đêm hôm giá lạng mùa đông, đám rước rầm rộ giữa tiếng đàn nhạc, trong ánh đuốc sáng rực trời như một cuộc hành quân lớn. Tượng thánh được rước ra sông làm lễ mộc dục, rồi rước về đền làm lễ dâng tế, chúc tụng.
Nói về lễ hội Đồng Nhân, giáo sư Trần Quốc Vượng và ông Vũ Tuấn Sán viết: “Ngày trước, từ tháng hai, mồng bốn dân làng đã bắt đầu tế lễ, gọi là lễ nhập tịnh. Mồng 5, lễ rước nước hàng trăm người rước kiệu, bơi thuyền ra giữa sông lấy nước nấu trầm hương để bao sai tượng, rõ ràng lễ rước nước tháng hai ở đền Đồng Nhân cũng như tiệc bánh trôi tháng ba ở đền Hát Môn là sự ảnh xạ vào lịch sử những nghi lễ nông nghiệp cổ truyền từ trước thời Lý, vua vẫn cầu mưa ở đền Nhị Thánh Trinh Linh phu nhân: sau pho tượng đá Bà Trưng - anh hùng lịch sử - vẫn lung linh bóng dáng một nữ thần nông nghiệp”.
Lớp tín ngưỡng thứ nhất và dễ nhận ra là sự kính trọng người anh hùng cứu nước. Chỉ riêng thái độ uống nước, nhớ nguồn ấy, đã khiến cho chúng ta trân trọng lễ hội đền Hát Môn. Hạt nhân văn hóa mà các thế hệ tiền nhân đã để lại cho thế hệ kế tiếp và đến hôm nay trong lễ hội đền Hát Môn có một sức sống kỳ lạ, như một chất men kỳ ảo nuôi niềm tôn trọng ấy sống mãi.
Mặt khác, bóc tách lớp văn hóa lắng đọng trong lễ hội ở đây không phải không gặp tín ngưỡng cổ xưa của cư dân nông nghiệp. Những viên bánh trôi và bữa tiệc bánh trôi quả là sự ảnh xạ vào lịch sử những lễ nghi nông nghiệp. Nhưng cũng chính tại tín ngưỡng này, người ta lại thấy nét riêng của nó. Ít có lễ hội nào lại có việc thả bánh trôi theo dòng nước, như lễ hội đền Hát Môn. Lễ Mộc Dục quen thuộc của nghi thức đêm, nhằm mô phỏng lại chiến trận năm xưa của người phụ nữ anh hùng. Pho tượng đá theo truyền thuyết là linh khí của Hai Bà Trưng tụ lại, cũng là một tín hiệu folklore quen thuộc để ta hiểu một lớp tín ngưỡng lắng đọng trong lễ hội ở đây.
Giữa hai lớp tín ngưỡng, có sự đan xen lẫn nhau, tạo ra diện mạo lễ hội ở đền Hát Môn. Sức sống của lễ hội qua thời gian chính ở chỗ nó tồn tại một cách hữu thức trong tâm hồn các thế hệ đi sau, mà không hề bị phai nhạt cả nghi thức lẫn ước vọng, tình cảm của con người được gửi gắm trong các lớp văn hóa tín ngưỡng.
Theo: - Văn Hóa Dân Gian Việt Nam - Nguyễn Chí Bền NXB Văn Hóa Dân Tộc - Lễ Hội Đền Hát Môn, trang 194
- Dulichvietnamtravel