Thứ Tư, 25 tháng 6, 2014

Lễ hội đền Hai Bà Trưng ở Hát Môn, Phúc Thọ (Hà Nội)
10:59:38 NGÀY 26/06/2014
Ngày nay, nhân dân ở nhiều nơi tổ chức lễ hội để tưởng nhớ công lao, tài đức, khí phách của Hai Bà Trưng với các nghi lễ khá tương đồng. Tuy nhiên, lễ hội đền Hai Bà Trưng ở xã Hát Môn, Phúc Thọ (Hà Nội) vào ngày hóa của Hai Bà (6/3 âm lịch) lại có những nét riêng, hết sức độc đáo.


Thánh tích độc đáo

Hát Môn là một làng cổ, nằm ngay cửa sông Hát (sông Đáy). Nằm kề chân đê là đền thờ Hai Bà Trưng. Truyền lại, đền có từ thời tiền Lê, diện mạo hiện tại của ngôi đền mang dấu vết từ thế kỷ thứ XIX. Ngay chân đê là cổng đền với các bậc thềm đi xuống. Hai bên cổng có hai cột trụ với hai câu đối nổi tiếng:
Đồng trụ chiết hoàn Giao Lĩnh trĩ
Cẩm Khê doanh hạc Hát giang trường
tạm dịch:
Đồng trụ gãy hay còn, núi Lĩnh Nam đời đời cao ngất
Cẩm Khê vơi hay đầy, dòng Hát Giang mãi mãi vươn dài
Đền chính tọa lạc trên một gò đất tứ linh đẹp và linh thiêng, sân trước nhà đại bái rất rộng có hai bàn thờ, sau hai bàn thờ có cây si. Tương truyền rằng, hai bàn thờ này thờ hai người lính gác hai cây muỗm trước sân đền, hai cây muỗm này vốn có từ thuở Hai Bà Trưng?
Tại nhà bái đường có bức hoành phi với bốn chữ "Lạc Hùng chính thống" nhằm ca ngợi sự nghiệp của Hai Bà Trưng đã nối lại nền chính thống của các vua Hùng. Ở hậu cung không có tượng mà chỉ có bài vị của Hai Bà Trưng. Các cụ già trong làng kể rằng, xưa kia, đền vẫn có tượng Hai Bà Trưng đặt trong hậu cung, hàng năm cứ đến 23, 24 tháng chạp, người làng rước tượng Hai Bà Trưng ra tắm ở nhà Dội. Năm 1883, thực dân Pháp, sau khi chiếm Hà Nội, đã kéo đến vây ráp Hát Môn, cướp hai pho tượng đem đi. Cùng năm ấy, rất nhiều tượng ở Hà Nội bị mất, trong đó có tượng Hai Bà Trưng ở đền Đồng Nhân. Thành ra, từ ấy, tại đền này, người dân đặt bài vị vào điện thờ Hai Bà Trưng mà không có tượng!
Theo huyền tích, Hai Bà Trưng là cháu chắt ngoại của dòng dõi Hùng Vương. Quê mẹ của Hai Bà ở thôn Nam An, xã Canh Thiên, huyện Ba Vì. Quê cha của Hai Bà ở Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, tỉnh Vĩnh Phúc. Bà Man Thiện, thân mẫu của Hai Bà góa chồng từ rất sớm nhưng rất chú trọng dậy con theo tinh thần yêu nước và thượng võ.
Trưng Trắc lớn lên, là một phụ nữ đảm đang, mưu trí. Bà lấy chồng là Thi Sách, con trai một Lạc tướng, người Chu Diên. Cùng chồng và em gái đang lo nghiệp lớn thì Thi Sách bị thái thú Tô Định giết chết, Trưng Trắc không mềm lòng. Nợ nước, thù nhà khiến bà quyết tâm khởi nghĩa đánh đổ chính quyền đô hộ phương bắc, khôi phục nền độc lập của đất nước. Truyền thuyết dân gian kể, khi ra trận, Bà cởi bỏ khăn tang để yên lòng quân sĩ. Ước vọng chiến đấu của Bà đã được “Thiên Nam ngữ lục”, một tác phẩm cuối thế kỷ XVII, ghi lại bằng lời thề:
"Một xin rửa sạch quốc thù. 
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng.
Ba kẻo oan ức lòng chồng.
Bốn xin vẹn vẹn sở công lênh này".


Truyền thuyết vùng Hà Nội kể: sau khi chết, khí anh linh của Hai Bà Trưng kết thành tượng đá, theo dòng nước trôi xuôi, mãi đến thời Lý mới đến vùng Thăng Long. Một đêm đầu tháng hai âm lịch, hai pho tượng đã tỏa sáng trên dòng sông Nhị trước bãi Đồng Nhân, dân làng lấy vải đỏ làm lễ buộc tượng đón các Bà vào. Dân gian truyền rằng tượng đá có cái thế hai tay giơ cao như đang rẽ nước tiến lên, đầu đội mũ trụ, thân mặc áo giáp.
Trong tâm thức dân gian, người dân không chịu để Hai Bà Trưng tự vẫn ở sông Hát mà người ta truyền rằng Hai Bà hi sinh ở chiến trường, máu Hai Bà thấm đỏ non sông. Bởi vậy, toàn bộ đồ thờ ở đền Hát Môn đều sơn màu đen, kiêng màu đỏ. Hàng năm, người đến tế lễ cũng như dự hội hè ở Hát Môn đều không được ăn vận quần áo, trang phục màu đỏ. Nếu có phải để ở ngoài đền. 

Sông Hát là nơi Hai Bà gieo mình tự vẫn để bảo toàn khí tiết vào ngày 6/3 năm Quý Mão (năm 43 sau Công nguyên). Vì thế, đền thờ Hai Bà Trưng ở Hát Môn được coi là nơi thánh tích, đền thờ Hai Bà Trưng ở phố Đồng Nhân (quận Hai Bà Trưng) được coi là nơi hiển tích, còn đền Hai Bà Trưng ở Mê Linh là nơi Hai Bà sinh ra và đóng đô.

Đền Hai Bà Trưng ở Hát Môn rộng tới hơn 3 ha, tọa lạc trên khu đất cổ có thế long chầu hổ phục. Theo sách "Việt điện u linh" và "Lĩnh Nam chích quái" thì đền được xây dựng sau khi Hai Bà Trưng hóa thân vào cõi bất diệt, do đó đây là ngôi đền cổ nhất trong hệ thống đền thờ Hai Bà. Qua nhiều lần trùng tu, hiện nay đền gồm các hạng mục: Quán Tiên, cổng tứ trụ, nghi môn, đền chính… Trong đền có nhiều đồ thờ quý giá.
Đại lễ dâng bánh trôi
Dân xã Hát Môn cử hành tới 3 lễ hội trong một năm.
Ngày Mồng 6 Tháng Ba - Đền mở cửa, thắp hương tế lễ. Cả làng cùng làm bánh trôi để dâng cúng. Người dân ở đây còn gọi bánh trôi là bánh tù tì. Bánh trôi ở Hát Môn được nặn theo hình quả trứng. Để dâng Hai Bà Trưng bánh được nặn đúng 100 viên rất nhỏ và sau khi tế thần xong dân làng đem 49 viên đặt vào lòng một bông hoa sen thả ra sông Hát để trôi ra biển, người ta nhìn những viên bánh trôi trôi đi.
Trong khi cúng tế Hai Bà Trưng, dân xã Hát Môn không quên Bà hàng nước. Họ cũng dâng bánh cúng bà. Dân làng Hát Môn không bao giờ và không ai dùng bánh trôi nước trước ngày mồng 6 tháng ba.
Ngày hôm đó, trong khi ở đền cúng Hai Bà Trưng, tại các tư gia người ta cũng làm bánh trôi để cúng tổ tiên, và chỉ sau những cuộc lễ này, người ta mới ăn bánh trôi.
Món bánh này, đối với dân làng Hát là một thứ bánh Thánh, Thánh hưởng thụ rồi dân mới ăn. Nếu chưa đến ngày mồng 6 tháng 3, người dân Hát Môn dù có đi đâu, được bạn bè mời ăn bánh trôi cũng không bao giờ họ ăn. Đây là do lòng thành kính của họ đối với Hai Bà Trưng, chưa đến ngày giỗ Hai Bà Trưng, Hai Bà Trưng chưa hưởng, họ chưa ăn. Và họ cũng muốn nhớ lại cử chỉ cao đẹp của bà hàng bánh trôi, dù nghèo khổ đến đâu cũng dâng bánh lên Hai Bà, trước khi Hai Bà xuất trận
Ngày Mồng 4 Tháng 9 - Đây là ngày Hai Bà Trưng khao quân khi vừa rút quân ở Tây Hồ về. Trong ngày này dân làng kéo cờ đại, giết trâu, giết bò, lợn, dê để tế Hai Bà.
Gắn với thánh tích, Lễ hội đền Hai Bà Trưng ở Hát Môn có những nét khác biệt so với nơi khác. Mọi thứ trong đền thờ đều đi đôi: Hai hương án, hai long ngai, hai kiệu rước, hai lư hương và khi tiến hành đại lễ thì có hai chủ lễ, hai người đọc chúc văn…
Cũng từ tích Hai Bà ăn bánh trôi trước khi tuẫn tiết, Lễ hội Hai Bà Trưng trong ngày 6/3 âm lịch còn có đại lễ dâng bánh trôi. Ông Nguyễn Quốc Thắng, Chủ tịch UBND xã Hát Môn cho biết: Theo phong tục, hằng năm bô lão trong làng chọn nhà của một gia đình hòa thuận, đủ đầy làm nhà chứa lễ để các cụ cao niên đến làm bánh trôi, từ trưa ngày 5 đến rạng sáng ngày 6/3. Gạo làm bánh phải là nếp cái hoa vàng, thơm ngon, nước làm bánh được lấy từ giếng thiêng trong làng (gọi là nước chí thành). Bánh được làm hết sức công phu, khi chín có màu trắng, trong, tròn, không nát. Sáng sớm ngày 6/3, dân làng tập trung tại nhà chứa lễ và rước bánh về đền làm lễ tế.
Ông Nguyễn Quốc Thắng cho biết thêm: Những năm gần đây, ngoài việc làm bánh dâng Hai Bà, Hội Phụ nữ xã còn tổ chức hội thi làm bánh trôi vào ngày 6/3 để tuyên truyền, giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ. Khi làm xong, các đội tập trung về UBND xã và tổ chức thành đội rước bánh ra đền trong tiếng nhạc hội vui tươi, náo nhiệt.

Người ta nói rằng đã là người Hát Môn thì dẫu đi Nam về Bắc hay ra nước ngoài đều kiêng không ăn bánh trôi từ ngày 5/9 năm trước đến ngày 5/3 âm lịch năm sau. Đến sáng ngày 6/3, sau khi làm lễ dâng bánh trôi cúng Hai Bà, các gia đình mới cúng tổ tiên và thưởng thức bánh vào chiều hôm đó.
Lễ Mộc dục - 24 tháng Chạp 
Ngày 24 Tháng Chạp - Đây là ngày hội lớn nhất trong năm của xã Hát Môn. Trong ngày hội này, hàng ngàn trai gái trong làng được vận động để chia thành hai đạo binh tiền hậu. Và hội, nam binh nữ binh có đồng phục riêng.
Tám cô trinh nữ nhan sắc được lựa chọn để theo sau hầu kiệu Hai Bà.
Cắt đặt xong mọi người phải tập dượt hàng tuần trước. Nửa đêm hôm 24 tháng chạp, nghe tiếng trống làng thanh niên, thanh nữ tập họp thành từng đội các chân cờ, chân kiệu, các hiệu trống, hiệu chiêng và các chân vác tàn lọng đã đứng vào hàng.
Đêm hôm giá lạng mùa đông, đám rước rầm rộ giữa tiếng đàn nhạc, trong ánh đuốc sáng rực trời như một cuộc hành quân lớn. Tượng thánh được rước ra sông làm lễ mộc dục, rồi rước về đền làm lễ dâng tế, chúc tụng.
Nói về lễ hội Đồng Nhân, giáo sư Trần Quốc Vượng và ông Vũ Tuấn Sán viết: “Ngày trước, từ tháng hai, mồng bốn dân làng đã bắt đầu tế lễ, gọi là lễ nhập tịnh. Mồng 5, lễ rước nước hàng trăm người rước kiệu, bơi thuyền ra giữa sông lấy nước nấu trầm hương để bao sai tượng, rõ ràng lễ rước nước tháng hai ở đền Đồng Nhân cũng như tiệc bánh trôi tháng ba ở đền Hát Môn là sự ảnh xạ vào lịch sử những nghi lễ nông nghiệp cổ truyền từ trước thời Lý, vua vẫn cầu mưa ở đền Nhị Thánh Trinh Linh phu nhân: sau pho tượng đá Bà Trưng - anh hùng lịch sử - vẫn lung linh bóng dáng một nữ thần nông nghiệp”.
Lớp tín ngưỡng thứ nhất và dễ nhận ra là sự kính trọng người anh hùng cứu nước. Chỉ riêng thái độ uống nước, nhớ nguồn ấy, đã khiến cho chúng ta trân trọng lễ hội đền Hát Môn. Hạt nhân văn hóa mà các thế hệ tiền nhân đã để lại cho thế hệ kế tiếp và đến hôm nay trong lễ hội đền Hát Môn có một sức sống kỳ lạ, như một chất men kỳ ảo nuôi niềm tôn trọng ấy sống mãi.
Mặt khác, bóc tách lớp văn hóa lắng đọng trong lễ hội ở đây không phải không gặp tín ngưỡng cổ xưa của cư dân nông nghiệp. Những viên bánh trôi và bữa tiệc bánh trôi quả là sự ảnh xạ vào lịch sử những lễ nghi nông nghiệp. Nhưng cũng chính tại tín ngưỡng này, người ta lại thấy nét riêng của nó. Ít có lễ hội nào lại có việc thả bánh trôi theo dòng nước, như lễ hội đền Hát Môn. Lễ Mộc Dục quen thuộc của nghi thức đêm, nhằm mô phỏng lại chiến trận năm xưa của người phụ nữ anh hùng. Pho tượng đá theo truyền thuyết là linh khí của Hai Bà Trưng tụ lại, cũng là một tín hiệu folklore quen thuộc để ta hiểu một lớp tín ngưỡng lắng đọng trong lễ hội ở đây.
Giữa hai lớp tín ngưỡng, có sự đan xen lẫn nhau, tạo ra diện mạo lễ hội ở đền Hát Môn. Sức sống của lễ hội qua thời gian chính ở chỗ nó tồn tại một cách hữu thức trong tâm hồn các thế hệ đi sau, mà không hề bị phai nhạt cả nghi thức lẫn ước vọng, tình cảm của con người được gửi gắm trong các lớp văn hóa tín ngưỡng.
Theo: -  Văn Hóa Dân Gian Việt Nam - Nguyễn Chí Bền NXB Văn Hóa Dân Tộc - Lễ Hội Đền Hát Môn, trang 194
           - Dulichvietnamtravel

Chủ Nhật, 22 tháng 6, 2014

Trống Đồng Ngọc Lũ

Tài Liệu: Trống Đồng Ngọc Lũ.

Theo sự phân loại của Hê-gơ, và bản tổng kê của các nhà khảo cổ tại miền Bắc, trong sách Thời Đại Đồng Thau, những trống đồng loại 1 phát hiện ở Việt Nam khoảng trên 70 chiếc. Số lượng tìm thấy đã hơn bất cứ một miền nào khác. Mặc dầu tướng Mã Viện đời Đông Hán khi qua đánh Giao Chỉ, đã tịch thu không biết bao nhiêu trống nữa, để đúc con ngựa kiểu mà chơi, và đúc cái cột đồng khắc chữ “Đồng Trụ chiết Giao Chỉ diệt“.
Những trống loại 1 đã thấy khá nhiều tại Thanh Hoá để có thể đoán chắc rằng Thanh Hoá là nới sản xuất và những trống cùng loại thấy ở các nơi khác (Hà Đông, Hà Nam, Hà Nội, Hải Phòng, Hoà Bình, Cao Bằng, Lào Cai, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hải Dương, Nam Định, Nghệ An) là những trống được kịp thời giấu đi. Đó là những trống có thể đoán được là của các tù trưởng đã thuê lò Thanh Hoá đúc. Đó là những vật biểu tượng quyền uy của tù trưởng.

Trong những di vật quý giá này , trống thuộc loại vừa kể, thuộc loại đẹp nhất, vẫn là trống tìm thấy năm 1902 ở Ngọc Lũ (tỉnh Hà Nam) hiện để tại viện bảo tàng lịch sử ở Hà Nội.

Các nhà khảo cổ có tinh thần khoa học mới, khi nghiên cứu về những di vật ấy chắc sẽ hứa hẹn nhiều khám phá về kỹ thuật, niên đại, tương quan tạo tác, tương quan sản xuất, xã hội, cả về trình độ tiến hoá mỹ thuật của dân tộc.
Riêng đề cập tới hình vẽ trên mặt trống đồng Ngọc Lũ, ước mong cho rằng nó sẽ là chìa khoá để mở nhiều những kho tàng khác có thể có trên những mặt trống khác. Chúng tôi không nói tới hình vẽ ở tang trống vì nó có giá trị trang trí nhiều hơn là thực tiễn.

Trống đồng Ngọc Lũ
Kể từ ngày cái trống này được moi ra khỏi chổ chôn giấu đến nay, những hình vẽ trên mặt trồng vẫn là một thách đố đối với các nhà khảo cổ học, cũng như với nhân dân Việt Nam muốn tìm hiểu nó định nói cái gì ?

Chúng tôi rất kính phục và cảm ơn các nhà khảo cổ Tây phương nhất là ở trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp, để rất nhiều năm tháng và tâm tư cùng đem những sử học, mày mò, khảo sát, suy luận và giả thiết. Các vị ấy đã viết nên cả những bộ sách lớn khiến trống đồng trở thành một vật nổi tiếng trên Thế Giới. Nhờ các vị mà rất đông những nhà học giả của nước chúng tôi khi đề cập đến di sản văn hoá này cũng đã khiến được cho quần chúng bình dân biết đại khái rằng ngày xưa các bộ lạc của tổ tiên mình thờ vật tổ là con chinh tên là Lạc, thờ thần mặt trời (vì hình vẽ ở trung tâm mặt trời loé ra nhiều tia sáng),lại có những hình người đội mũ cánh chim, mặc áo xòe ra như lông cánh chim, rồi có cả mắt chim ở đầu mũi thuyền, đầu mũi tên, trên mái chèo, bánh lái thuyền, …

Nhiều vị xác quyết rằng bộ lạc cổ xưa này sau đó di cư đến các hải đảo Thái Bình Dương, nên có liên hệ bà con với bộ lạc Dayak ở Bornéo, còn có hình thuyền giống như trên trống dùng vào dịp tang lễ. Nhiều vị khác còn thêm tại miền Bắc có bộ lạc hay hoá trang cái đầu thành đầu chim trong lễ nghi cúng kiếng theo điệu trống đồng.

Có thể trống đồng xưa chỉ tù trưởng mới được phép có, nó như một ấn ngọc tỷ, biểu tượng uy quyền của vị Hoàng Đế, người ta chả nên lầm mà hiểu nó như một sản phẩm công nghệ để trao đổi trong phiên chợ, và hiểu những hình vẽ là để cho vui mắt người mua dùng.

Việc cần là tìm cái ý tiên khởi của người xưa gởi gắm vào hình vẽ và nếu có thể được thì tìm hiểu xem hình vẽ đó để làm gì?
Tạm coi là hình mặt trời ở giữa mặt trống, nhưng sao lại 14 tia sáng mà không hơn, không kém?
Sao lại chỉ có 18 con chim?
Sao lại có 6 con gà, 10 con hươu? Rồi 8 con gà 10 con hươu nữa?
Nếu làm cho đẹp sao không làm đều nhau?

Có lẽ chăng đây là cái trống của người tù trưởng quản lãnh 14 vị tù trưởng nhỏ khác mà tiếng trống đánh lên thì 14 nơi kia đều phải nghe?
Hoặc đây là một đám rước và người ta hoá trang chăng? Nhưng đâu là đầu, đâu là cuối đám rước? Và sao lại có người giã gạo? Người ngồi nhà sàn?
……
Tài ba và nhiệm vụ của tù trưởng
Một tù trưởng hẳn phải có nhiều đám dân đến hỏi những việc thuộc đời sống hằng ngày của họ. Ông phải có hiểu biết gì hơn họ và chỉ bảo họ ra sao?
Chẳng hạn, có đám hỏi đêm nay có thể đi săn được không?
Liệu có trăng không? Trăng lên vào chặp tối hay gần sáng?
Ngày mai nước có lên không ? Có thể cho thuyền ra khơi đánh cá được không?
Mùa này nên ở nhà hay đi hái trái?
Đã nên giả gạo để ủ làm rượu dùng vào ngày lễ nào đó chưa?
……
Ông tù trưởng phải có nhiệm vụ biết ngày giờ, sáng tối, trăng tròn trăng khuyết, tiết trời nóng lạnh, mưa gió, con nước, tình hình muôn thú, cũng như những dịp lễ lạt phải chuẩn bị trước. Sự tích lũy kinh nghiệm của nhiều đời tù trưởng đã phải được ghi lại, cũng như phải có gì để mà ghi lại, để mà làm việc và hướng dẫn quần chúng.

Một quyển lịch cổ xưa
Vì các lý lẽ trên, vị tù trưởng phải có một quyển lịch năm, tính theo tuần trăng, theo mùa màng khí tiết, đặt ngay cạnh mình, để dân hỏi gì là tra ngay ra được câu trả lời.
Lịch ấy vạch trên đồ đất nung thì dể vỡ, dễ mòn, không truyền được nhiều đời. Vạch trên mặt trống đồng thì thật là tiện, gọn, đúng với vật biểu tượng uy quyền của mình cùng cả dòng tù trưởng.

Vậy những hình vẽ trên mặt trống đồng Ngọc Lũ là một quyển Âm Lịch, có tháng đủ, tháng thiếu, có đêm trăng tròn, trăng khuyết, hay không có trăng, lại có cả năm nhuận và chu kỳ 18 năm để tính tháng dư, cũng như có những chỉ vạch về 4 mùa trong năm.

Theo http://www.memaria.org

Nghệ Nhân Nguyễn Hữu Chỉnh

Nghệ nhân Nguyễn Hữu Chỉnh: Một đời tâm huyết với lụa Hà Đông

Ông Nguyễn Hữu Chỉnh sinh ra trong gia đình dệt lụa nổi tiếng bậc nhất làng Vạn Phúc. Được thừa hưởng những tinh hoa của bậc cha chú ông đã tạo ra nhiều mẫu mã hoa văn trên chất liệu tơ tằm. Với bàn tay tài hoa và sự tâm huyết với nghề ông đã được trả công xứng đáng, suốt cuộc đời cống hiến cho nghề lụa ông đã vinh dự nhận được 7 vương miện, 12 danh hiệu giải thưởng từ các cuộc thi. Các danh hiệu cao quý như: Nghệ nhân “Bàn tay vàng”; "Doanh nhân tiêu biểu 1000 năm Thăng Long - Hà Nội".

Gian nan giữ nghề lụa 

Ông nội ông là cụ Nguyễn Chấp Chung khi xưa chuyên dệt các mặt hàng tơ lụa phục vụ triều đình nhà Nguyễn. Cụ cũng chính là một trong ba người thợ dệt Việt Nam được vinh danh tại cuộc đấu xảo thuộc địa của Pháp ở Mác - xây mà tên tuổi vẫn được lưu trong bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Cha ông là Nguyễn Văn Thiệp cũng là một nghệ nhân của làng nghề, chính ông đã thừa hưởng tay nghề từ cha trong việc thiết kế mẫu mã hoa văn trên chất liệu tơ tằm.

Ông là một trong 3 nghệ nhân cao tuổi có nhiều kinh nghiệm và đóng góp cho làng nghề Vạn Phúc. Cả cuộc đời ông gắn bó với nghề dệt. Trong suốt 20 năm (từ năm 1969 đến 1989), ông tham gia xây dựng và lãnh đạo Xí nghiệp Dệt Sơn La. Do có công phát triển sản phẩm thổ cẩm của đồng bào các dân tộc thiểu số ở Sơn La, ông được UBND tỉnh tặng bằng "Lao động sáng tạo". Với kinh nghiệm nhiều năm trong nghề dệt, ông góp phần đầu tư thiết bị, chuyển giao kỹ thuật giúp đồng bào Ninh Thuận dệt thổ cẩm từ khổ hẹp sang khổ rộng.

Nghệ nhân Nguyễn Hữu Chỉnh đang kiểm tra khâu dệt lụa
Năm 1990, nghỉ hưu trở về địa phương đúng vào thời điểm nhà nước xóa bỏ cơ chế bao cấp, ông đã cùng các nghệ nhân tâm huyết phục hồi nghề dệt lụa Vạn Phúc truyền thống của địa phương. Ông đi vay 5 chỉ vàng mua tơ, không máy móc, ông làm thủ công hoàn toàn. Nhưng khi ông đèo xe đạp mang lụa lang thang chào bán khắp Hà Nội thì không ai mua. Hơn nửa năm như vậy, nản lòng thì ông gặp người bạn kinh doanh đồ gỗ. Ông ta thuê một điểm trong triển lãm Giảng Võ để trưng bày hàng, và cho ông gửi lụa trưng bày không lấy tiền. Năm 1992, có đoàn thương gia Ấn Độ sang tham quan ở triển lãm Giảng Võ, nhìn thấy lụa tơ tằm của ông Chỉnh, họ ưng ngay và đặt mua 3.000 mét. Ông Chỉnh dồn cả lụa mấy tháng ế ẩm chỉ có chưa đầy 200 mét. Lụa là mặt hàng cao cấp, cao giá, bán hết 200 mét lụa ông có trong tay một số vốn lớn để tiếp tục theo đuổi nghề và mở rộng sản xuất. Ống bảo, đó là lần đầu tiên trong đời ông cầm trong tay số tiền bán lụa lớn như thế, mà lại bằng tiền đô.

Đến năm 2001, số máy dệt ở Vạn Phúc đã lên tới hơn 1000 máy, sản lượng đạt tới hơn 2,5 triệu mét/ năm, nhưng còn thiếu thị trường tiêu thụ. Lãnh đạo địa phương quyết định cho thành lập Hiệp hội làng nghề Vạn Phúc để quản lý sản xuất và quảng bá, tuyên truyền, xây dựng thị trường nội địa, thu hút khách du lịch. Ông Nguyễn Hữu Chỉnh được bầu là Chủ tịch Hiệp hội và giữ chức này trong 9 năm liền. Vợ chồng nghệ nhân Nguyễn Hữu Chỉnh sinh được 5 người con (2 trai, 3 gái), ai cũng thành thạo nghề dệt. Những lúc cao điểm nhất nhà nghệ nhân Nguyễn Hữu Chính có 8 máy dệt, phải thuê 5-6 thợ. Nhưng những năm trở lại đây, giá nguyên liệu ngày càng cao,  (thậm chí tăng gần gấp đôi), sản xuất không có lãi, nên gia đình ông chỉ hoạt động 2-3 máy, con cháu trong nhà làm là chính.

Theo ông, để dệt được tấm lụa đẹp điều quan trọng nhất là các hộ sản xuất trong làng Vạn Phúc đều phải ý thức được việc phát huy thương hiệu, chữ tín của nghề truyền thống: Để dệt được sản phẩm độc đáo, người thợ dệt phải điêu luyện, sử dụng kỹ thuật dệt thủng rất tinh vi để tạo nên những hoa văn nổi vân óng ánh, nhưng chạm tay vào thì cảm thấy mịn màng, mát rượi, không chút gợn, đó là do trước khi đưa vào sản xuất, tơ đã qua chọn lọc, phân loại các loại tơ to nhỏ khác nhau. Sau đó tơ được hồ sợi, tạo ra lớp bao bọc sợi tơ để tơ khỏi đứt và đưa lên máy dệt. Vì thế lụa Vạn Phúc có đặc điểm riêng so với làng nghề khác do giữ được kỹ thuật chung mà mọi người đều tuân thủ, tạo nên sản phẩm độc đáo riêng có của Vạn Phúc. Hoa văn do những nghệ nhân của làng nghề có kinh nghiệm thiết kế mẫu, phải kết hợp giữa truyền thống và hiện đại để trên cơ sở dung hòa được cả hai cái, làm thế nào đó để người tiêu dùng ưa chuộng, đấy là cả quá trình nghiên cứu, tìm ra mẫu đáp ứng được cả hai mặt.

Cũng theo nghệ nhân, hiện nay trên thị trường có nhiều sản phẩm lụa của các nước như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ... nhưng điều quan trọng là chúng ta phải phát triển các mặt hàng mang tính Việt Nam thuần túy, từ đó khẳng định thương hiệu sản phẩm của mình. Cùng với việc thiết kế các mẫu mã mới, nghệ nhân Nguyễn Hữu Chỉnh đã nghiên cứu thành công thuốc nhuộm có độ bền màu cao, đồng thời tổ chức một khóa học cho anh chị em làm nghề thợ nhuộm trong làng về kỹ thuật này để sản phẩm của lụa Vạn Phúc được nâng lên. Trong đó, các nghệ nhân cao tuổi như ông Nguyễn Hữu Chỉnh thực sự giữ vai trò đầu tàu để truyền bá kỹ năng nghề nghiệp, bảo tồn và phát triển những mặt hàng độc đáo của làng nghề.

Tâm huyết với những sản phẩm của Thăng Long 1000 văn hiến
Từ xa xưa, sản phẩm lụa Vạn Phúc đã nổi tiếng trong và ngoài nước, đã đi vào những câu ca dao, dân ca. Chẳng hạn câu: "Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng/ Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đông".


Nghệ nhân giới thiệu mẫu lụa Long vân
Phát huy vai trò "Tuổi cao - Gương sáng", "Tuổi cao chí khí càng cao" của lớp người cao tuổi Thủ đô, các nghệ nhân cao tuổi như ông Nguyễn Hữu Chỉnh vẫn miệt mài với nghề dệt. Không ngừng sáng tạo, người nghệ nhân già đã cho ra đời nhiều mẫu thiết kế mới. Các mẫu thiết kế: hoa ban, đoạt Giải thưởng quốc gia, hoa loa kèn... đều được đánh giá cao tại các cuộc dự thi và được khách hàng ưa chuộng. Đặc biệt hơn cả là phải kể đến mẫu Long Vân, hưởng ứng cuộc thi sáng tác mẫu sản phẩm thủ công, mỹ nghệ chào mừng Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Với chủ đề Thăng Long văn hiến trên nền lụa vân, thứ lụa tinh hoa nhất của Lụa Vạn Phúc. Có thể nói, đây là một sự sáng tạo vượt bậc và là mẫu thiết kế mới nhất, tôn thêm giá trị cho những nếp lụa quý Hà Ðông. Lụa Long Vân với những hoa văn mang hình tượng hai rồng chầu gác Khuê Văn được cách điệu trong hình ảnh hoa sen, kết hợp với những hoa văn truyền thống được điểm xuyết như: chữ thọ, đám mây... thể hiện sự hài hòa âm dương vũ trụ, mang một ý nghĩa sâu sắc là hướng tới sự thịnh vượng và phát triển bền vững. Năm 2011, ông tiếp tục gửi những mẫu thiết kế vào Quảng Nam và vinh dự đoạt giải nhì cuộc thi Chào mừng phố cổ Hội An tròn mười năm được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới.

Việc nghiên cứu mỗi mẫu hoa văn mới, theo nghệ nhân Nguyễn Hữu Chỉnh, cũng hết sức kỳ công: “Sau khi nghiên cứu nhu cầu của thị trường thì mình vẽ bằng tay trên giấy, phải nhìn thấy mẫu hoa văn hài hòa. Điều này đòi hỏi người thiết kế phải có kiến thức về mặt mỹ thuật, nhất là mỹ thuật công nghiệp. Sau đó, đưa mẫu đó vào máy vi tính để phân tích những điểm nổi, rồi chuyển từ kết quả đó để đục bìa, đưa lên máy thì nó sẽ thành hoa”.

Dẫu còn nhiều khó khăn, trăn trở, nhưng với những nghệ nhân tâm huyết với nghề như ông Chỉnh, ông luôn tâm niệm việc gìn giữ và truyền lại bí quyết từ thế hệ này sang thế hệ khác là trách nhiệm của mình. Những mong muốn, kiến nghị của ông cũng là nhằm để làng nghề ngày càng phát triển hơn.

Ngọc Hà

Thứ Sáu, 20 tháng 6, 2014

Văn hóa thời Hùng Vương

THỜI VUA HÙNG KHÔNG CÓ “VĂN HÓA ĐÓNG KHỐ“
Thứ tư 09/04/2014 12:00:00 (GMT +7)
Tác giả: Vũ Kim Biên
Nguồn: http://kienthuc.net.vn/

Nhiều năm nay không biết người ta nghĩ thế nào mà cho rằng Vua Hùng đóng khố, rồi như một thứ "văn hóa đóng khố" được gán cho thời Hùng Vương, tha hồ vẽ vời, nặn tượng, mặc biểu diễn. Có thể nói họ không hề để tâm tới những kết quả nghiên cứu của giới chuyên môn về vải vóc thời đại Hùng Vương.

Về khảo cổ học
- Ứng với truyền thuyết bà Âu Cơ dạy dân cấy lúa trồng dâu dệt vải, khảo cổ học đã tìm thấy rất nhiều dọi xe sợi trong các di chỉ thuộc giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên cách nay 4.500 năm. GS.TS Hán Văn Khẩn là một nhà khảo cổ học uy tín đưa ra kết luận: "Dọi xe chỉ tìm thấy khá phổ biến trong văn hóa Phùng Nguyên. Nó được làm bằng đất sét tương đối mịn hoặc tương đối thô... Dọi xe sợi có đường kính trung bình 0,6 - 2cm...Như vậy, nghề dệt vải đã phổ biến trong văn hóa Phùng Nguyên. Cư dân văn hóa này ít nhất có hai loại vải mặc, đó là vải vỏ cây và vải dệt từ sợi".
- Một số mộ táng thời Hùng Vương ở Lâm Thao (Phú Thọ) thuộc giai đoạn văn hóa Gò Mun cách nay 3.000 năm thấy rõ vết vải liệm trên hài cốt. Các mộ Châu Can (Hà Tây cũ), mộ Việt Khê (Hải Phòng) thuộc văn hóa Đông Sơn cách nay 2.800 năm đến thế kỷ II trước công nguyên, đều có vải liệm.
- Trên trống đồng Đông Sơn loại I cách nay 2.800 năm, khắc hình vũ công mặc áo dài nhảy múa.
- Năm 2005 hai tiến sĩ khảo cổ học Nguyễn Việt và Bùi Văn Liêm hợp tác với hai tiến sĩ khảo cổ học người Úc, khai quật ngôi mộ ở Đông Xá (Hưng Yên) có niên đại 2.100 (+_60 năm). Trong ngôi mộ tìm thấy một tấm vải liệm còn nguyên vẹn, bên trong còn bọc vài lớp vải nữa... Họ kết luận: "Dữ liệu vải sợi của đội khảo cổ Việt Nam - Úc ở Đông Xá khẳng định rằng, nghề dệt vải đã phát triển trong thời đại kim khí ở Bắc Việt Nam (tức thời Hùng Vương - VKB) và rằng vải giữ vai trò trung tâm trong mộ táng Đông Sơn, không chỉ cho trang phục mà còn làm chiếu , vải bọc và vải liệm".

Vũ công mặc áo dài nhảy múa khắc trên trống đồng Đông Sơn loại 1 cách đây 2.800 năm.

Về sử học
- Sách Lịch sử Việt Nam tập I của Nhà Xuất bản Khoa học xã hội in năm 1971 đã viết: "Dấu vải in trên nhiều đồ đồng đồ gốm. Tượng người, hình người chạm khắc trên trống thạp đồng cho ta biết, y phục người đương thời đã rất phong phú. Người Lạc Việt mặc áo chui đầu cài khuy bên trái".
- Sách Lịch sử Vĩnh Phú, Ty Văn hóa Vĩnh Phú xuất bản năm 1980 viết: "Ở các di chỉ khảo cổ tìm thấy nhiều dọi xe sợi bằng đất nung. Tại một số ngôi mộ táng ở Tứ Xã thấy có vải in lên hài cốt. Các hình khắc trên trống đồng cùng tượng đồng cho ta thấy thời đó mặc áo chui đầu cài khuy bên trái. Về cuối thời Hùng Vương tầng lớp trên may mặc khá xa hoa. Ở di chỉ Làng Cả (Việt Trì) tìm thấy bộ khóa dây lưng bằng đồng thau, mỗi bên tạc bốn con rùa trang trí đẹp, dự đoán của một vị quan võ".
- Sử cũ nói rằng, ở thế kỷ I - II nhà Hán, nhà Ngô đô hộ nước ta, bắt dân cống nộp vải Cát Bá (một loại vải bông trắng mịn), vải tơ chuối, lụa tơ tằm. Đến nhà Đường đô hộ (thế kỷ VII) họ đánh thuế các nghề thủ công nhất loạt thu bằng vải, lụa, sa, the. Điều đó cho thấy, hàng dệt may mặc của xứ ta từ trước công nguyên đã rất phong phú và đẹp, hấp dẫn mạnh với người nước ngoài.

Ảnh chụp chi tiết tấm vải liệm Động Xá.

Với các bằng chứng khoa học như vậy, ba bốn nghìn năm trước xứ ta đã là quê hương của bông gai tơ tằm vải lụa, thì làm gì có chuyện vua quan đóng khố đi ra ngoài hoặc triều hội.
Truyền thuyết kể rằng, Chử Đồng Tử quá nghèo hai cha con phải chung nhau chiếc khố. Đấy là vì Chử Đồng Tử quá nghèo, còn những người khác hẳn là có áo quần. Sự thật là người Việt tộc vẫn quen dùng khố làm đồ lót. Riêng những người làm nghề đánh bắt cá tôm dầm mình dưới đồng chiêm, đầm hồ là thường chỉ đóng khố cho thuận tiện. Bộ y phục cổ của dân tộc ta còn lưu truyền đến trước cách mạng tháng 8/1945: Nữ trong đóng khố ngoài mặc váy, trong mặc yếm ngoài mặc áo; Nam trong đóng khố ngoài mặc quần lá tọa, áo chạy khuy con bọ bên nách trái. Quần lá tọa là loại quần hai ống rất rộng, tựa hồ như cái váy cắt một đường ở giữa lên đến đũng và khâu thành ống, không có cạp luồn dây rút mà dùng ngay phần cạp rộng gọi là lá tọa buộc khít bụng.

Dọi xe sợi ở di chỉ Đồi Giám (Việt Trì) thuộc văn hóa Phùng Nguyên cách nay 4.500 năm.

Đó là nói về y phục của người dân bình thường, còn đối với vua quan thì dù dưới thời Hùng Vương hay thời nào họ đều may mặc bằng loại vải tốt nhất, sang trọng nhất. Đặc biệt, trên phương diện tín ngưỡng và nghệ thuật, trang phục còn được nâng cao hơn đời sống thực tế rất nhiều. Những vị thần được thờ bao giờ cũng có áo mũ hia bốt chỉnh tề bất kể lúc sống hoàn cảnh thế nào. Những nhân vật đưa lên sân khấu thường ăn mặc sang hơn ngoài xã hội.
Chúng ta hãy thử xem, cùng thời với các Vua Hùng, người phương Bắc trừ vùng lưu vực sông Hoàng Hà, còn phần lớn vùng cao trồng trọt nương rẫy đời sống không thể bằng người Lạc Việt cấy lúa nước. Nhưng ngày nay bên Trung Quốc làm phim về thời đại đó, từ vua quan binh tướng đến dân thường đều có áo quần lộng lẫy để tự hào về dân tộc họ. Còn mấy nhà làm nghệ thuật của ta thì cứ kéo tụt tổ tiên xuống lạc hậu hoang sơ cởi trần đóng khố sai sự thật quá lớn, không rõ có động cơ gì.
Đã đến lúc cần cấp tốc loại bỏ thứ "văn hóa đóng khố" ra khỏi nhận thức về trang phục thời đại Hùng Vương, vì đó là một sai lầm nguy hại.

Bên cạnh những thông tin về vải vóc, ta còn thấy người thời Hùng Vương rất yêu thẩm mỹ. Trên bề mặt đồ gốm có tới 35 mẫu hoa văn đẹp, các loại vòng tay, hoa tai, hạt chuỗi đeo cổ làm bằng đá ngọc cực kỳ tinh xảo. Đồ đồng, mà trống đồng Đông Sơn loại I ngày nay tuy đã sao đúc được nhưng chưa thể bằng nguyên bản. Một cư dân như vậy dứt khoát rất hiếm có ai dùng khố làm trang phục chính.

(Sưu tầm)