THỜI VUA HÙNG
KHÔNG CÓ “VĂN HÓA ĐÓNG KHỐ“
Thứ tư 09/04/2014
12:00:00 (GMT +7)
Tác giả: Vũ Kim Biên
Nguồn: http://kienthuc.net.vn/
Nguồn: http://kienthuc.net.vn/
Nhiều năm nay không
biết người ta nghĩ thế nào mà cho rằng Vua Hùng đóng khố, rồi như một thứ
"văn hóa đóng khố" được gán cho thời Hùng Vương, tha hồ vẽ vời, nặn
tượng, mặc biểu diễn. Có thể nói họ không hề để tâm tới những kết quả nghiên
cứu của giới chuyên môn về vải vóc thời đại Hùng Vương.
Về khảo cổ học
- Ứng với truyền
thuyết bà Âu Cơ dạy dân cấy lúa trồng dâu dệt vải, khảo cổ học đã tìm thấy rất
nhiều dọi xe sợi trong các di chỉ thuộc giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên cách nay
4.500 năm. GS.TS Hán Văn Khẩn là một nhà khảo cổ học uy tín đưa ra kết luận:
"Dọi xe chỉ tìm thấy khá phổ biến trong văn hóa Phùng Nguyên. Nó được làm bằng
đất sét tương đối mịn hoặc tương đối thô... Dọi xe sợi có đường kính trung bình
0,6 - 2cm...Như vậy, nghề dệt vải đã phổ biến trong văn hóa Phùng Nguyên. Cư
dân văn hóa này ít nhất có hai loại vải mặc, đó là vải vỏ cây và vải dệt từ
sợi".
- Một số mộ táng
thời Hùng Vương ở Lâm Thao (Phú Thọ) thuộc giai đoạn văn hóa Gò Mun cách nay
3.000 năm thấy rõ vết vải liệm trên hài cốt. Các mộ Châu Can (Hà Tây cũ), mộ
Việt Khê (Hải Phòng) thuộc văn hóa Đông Sơn cách nay 2.800 năm đến thế kỷ II
trước công nguyên, đều có vải liệm.
- Trên trống đồng
Đông Sơn loại I cách nay 2.800 năm, khắc hình vũ công mặc áo dài nhảy múa.
- Năm 2005 hai tiến sĩ
khảo cổ học Nguyễn Việt và Bùi Văn Liêm hợp tác với hai tiến sĩ khảo cổ học
người Úc, khai quật ngôi mộ ở Đông Xá (Hưng Yên) có niên đại 2.100 (+_60 năm).
Trong ngôi mộ tìm thấy một tấm vải liệm còn nguyên vẹn, bên trong còn bọc vài
lớp vải nữa... Họ kết luận: "Dữ liệu vải sợi của đội khảo cổ Việt Nam - Úc
ở Đông Xá khẳng định rằng, nghề dệt vải đã phát triển trong thời đại kim khí ở
Bắc Việt Nam (tức thời Hùng Vương - VKB) và rằng vải giữ vai trò trung tâm
trong mộ táng Đông Sơn, không chỉ cho trang phục mà còn làm chiếu , vải bọc và
vải liệm".
|
Vũ
công mặc áo dài nhảy múa khắc trên trống đồng Đông Sơn loại 1 cách đây
2.800 năm.
|
Về sử học
- Sách Lịch sử
Việt Nam tập I của Nhà Xuất bản Khoa học xã hội in năm 1971 đã viết:
"Dấu vải in trên nhiều đồ đồng đồ gốm. Tượng người, hình người chạm khắc
trên trống thạp đồng cho ta biết, y phục người đương thời đã rất phong phú.
Người Lạc Việt mặc áo chui đầu cài khuy bên trái".
- Sách Lịch sử
Vĩnh Phú, Ty Văn hóa Vĩnh Phú xuất bản năm 1980 viết: "Ở các di chỉ
khảo cổ tìm thấy nhiều dọi xe sợi bằng đất nung. Tại một số ngôi mộ táng ở Tứ
Xã thấy có vải in lên hài cốt. Các hình khắc trên trống đồng cùng tượng đồng
cho ta thấy thời đó mặc áo chui đầu cài khuy bên trái. Về cuối thời Hùng Vương
tầng lớp trên may mặc khá xa hoa. Ở di chỉ Làng Cả (Việt Trì) tìm thấy bộ khóa
dây lưng bằng đồng thau, mỗi bên tạc bốn con rùa trang trí đẹp, dự đoán của một
vị quan võ".
- Sử cũ nói rằng, ở
thế kỷ I - II nhà Hán, nhà Ngô đô hộ nước ta, bắt dân cống nộp vải Cát Bá (một
loại vải bông trắng mịn), vải tơ chuối, lụa tơ tằm. Đến nhà Đường đô hộ (thế kỷ
VII) họ đánh thuế các nghề thủ công nhất loạt thu bằng vải, lụa, sa, the. Điều
đó cho thấy, hàng dệt may mặc của xứ ta từ trước công nguyên đã rất phong phú
và đẹp, hấp dẫn mạnh với người nước ngoài.
|
Ảnh chụp chi tiết tấm vải liệm
Động Xá.
|
Với các bằng chứng
khoa học như vậy, ba bốn nghìn năm trước xứ ta đã là quê hương của bông gai tơ
tằm vải lụa, thì làm gì có chuyện vua quan đóng khố đi ra ngoài hoặc triều hội.
Truyền thuyết kể rằng,
Chử Đồng Tử quá nghèo hai cha con phải chung nhau chiếc khố. Đấy là vì Chử Đồng
Tử quá nghèo, còn những người khác hẳn là có áo quần. Sự thật là người Việt tộc
vẫn quen dùng khố làm đồ lót. Riêng những người làm nghề đánh bắt cá tôm dầm
mình dưới đồng chiêm, đầm hồ là thường chỉ đóng khố cho thuận tiện. Bộ y phục
cổ của dân tộc ta còn lưu truyền đến trước cách mạng tháng 8/1945: Nữ trong
đóng khố ngoài mặc váy, trong mặc yếm ngoài mặc áo; Nam trong đóng khố ngoài
mặc quần lá tọa, áo chạy khuy con bọ bên nách trái. Quần lá tọa là loại quần
hai ống rất rộng, tựa hồ như cái váy cắt một đường ở giữa lên đến đũng và khâu
thành ống, không có cạp luồn dây rút mà dùng ngay phần cạp rộng gọi là lá tọa
buộc khít bụng.
|
Dọi xe sợi ở di chỉ Đồi Giám (Việt
Trì) thuộc văn hóa Phùng Nguyên cách nay 4.500 năm.
|
Đó là nói về y phục
của người dân bình thường, còn đối với vua quan thì dù dưới thời Hùng Vương hay
thời nào họ đều may mặc bằng loại vải tốt nhất, sang trọng nhất. Đặc biệt, trên
phương diện tín ngưỡng và nghệ thuật, trang phục còn được nâng cao hơn đời sống
thực tế rất nhiều. Những vị thần được thờ bao giờ cũng có áo mũ hia bốt chỉnh
tề bất kể lúc sống hoàn cảnh thế nào. Những nhân vật đưa lên sân khấu thường ăn
mặc sang hơn ngoài xã hội.
Chúng ta hãy thử xem,
cùng thời với các Vua Hùng, người phương Bắc trừ vùng lưu vực sông Hoàng Hà,
còn phần lớn vùng cao trồng trọt nương rẫy đời sống không thể bằng người Lạc
Việt cấy lúa nước. Nhưng ngày nay bên Trung Quốc làm phim về thời đại đó, từ
vua quan binh tướng đến dân thường đều có áo quần lộng lẫy để tự hào về dân tộc
họ. Còn mấy nhà làm nghệ thuật của ta thì cứ kéo tụt tổ tiên xuống lạc hậu
hoang sơ cởi trần đóng khố sai sự thật quá lớn, không rõ có động cơ gì.
Đã đến lúc cần cấp tốc
loại bỏ thứ "văn hóa đóng khố" ra khỏi nhận thức về trang phục thời
đại Hùng Vương, vì đó là một sai lầm nguy hại.
Bên cạnh những thông
tin về vải vóc, ta còn thấy người thời Hùng Vương rất yêu thẩm mỹ. Trên bề mặt
đồ gốm có tới 35 mẫu hoa văn đẹp, các loại vòng tay, hoa tai, hạt chuỗi đeo cổ
làm bằng đá ngọc cực kỳ tinh xảo. Đồ đồng, mà trống đồng Đông Sơn loại I ngày
nay tuy đã sao đúc được nhưng chưa thể bằng nguyên bản. Một cư dân như vậy dứt
khoát rất hiếm có ai dùng khố làm trang phục chính.
(Sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét