Học giả
R. Heine-Geldern đã định nghĩa về nền Văn hóa Đông Sơn như là một nền văn hóa
du nhập từ văn hóa Hán và xa nữa từ Tây phương, thường được
gọi là nền văn minh Hallstatt hay là nền văn minh La Tène của Châu Âu. Những học giả kế tiếp học giả
Geldern, khi nghiên cứu về Văn hóa Đông Sơn cũng có một cái nhìn tương tự giống
Geldern—như V. Goloubew, E. Karlgren và nhất là O. Jansé. Những học giả này đều
có những tác phẩm lớn; vì vậy không những có ảnh hưởng đến học giới quốc tế, mà
còn ảnh hưởng đến những học giả Việt Nam.
Tuy
nhiên tất cả các lập luận đầu tiên đều cho thấy sự đánh giá sai lầm khi mà văn
hóa Phùng Nguyên có niên đại sớm hơn 1000 năm hé lộ, văn hóa Đông Sơn là văn
hóa bản địa và có sự kế thừa từ Văn Hóa Phùng Nguyên.
Văn hóa
Phùng Nguyên là một
nền văn hóa tiền sử thuộc sơ kỳ thời
đại đồ đồng, cuối thời đại đồ đá
mới, cách đây chừng 4.000 năm đến 3.500 năm. Khu di chỉ Phùng Nguyên nằm trên hai gò đất (gò Ếch và gò Nhà Giã), trong cánh đồng Dộc Chầu thuộc làng Phùng Nguyên (tên cũ là Cổ Nhuế, tên Việt cổ là Kẻ Noi), xã Kinh Kệ, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ (nay là xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ). Xã
Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, là nơi đầu tiên tìm ra các di
chỉ của nền văn hóa này. Di chỉ
văn hóa Phùng Nguyên đã được phát
hiện ở Phú Thọ, Bắc Ninh, Hà Tây, Hà Nội, Hải Phòng và một vài nơi khác trong lưu vực sông Hồng. Tính đến năm 1998, có
khoảng 55 địa điểm đã được phát hiện có di chỉ văn hóa đồng dạng với các di chỉ
tại Phùng Nguyên, trong đó có 3 địa điểm có di cốt người. Ở những nơi đây,
trong tất cả các hiện vật khảo cổ khai quật được thuộc nền văn hóa này, ngoài
ít mẩu xỉ đồng, hiện tại chưa hề
tìm thấy bất kỳ công cụ bằng đồng nào. Công cụ bằng đá phổ
biến và chiếm ưu thế tuyệt đối. Đồ trang sức bằng các loại đá, đá bán quý, ngọc được
tìm thấy nhiều, đặc biệt là các vòng đá. Ngoài đồ đá, cư dân Phùng Nguyên đã
biết chế tạo đồ gốm đặc sắc từ khâu làm đất, tạo dáng cho đến hoa văn trang
trí.
Cùng
thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng ở Việt Nam như văn hóa Phùng Nguyên còn có văn hóa Cồn Chân Tiên, Hoa Lộc (lưu vực sông Mã), văn hóa của các bộ lạc người
nguyên thủy ở lưu vực sông Lam,
của các bộ lạc ở thượng lưu sông Mã (huyện Sông
Mã, tỉnh Sơn La), văn hóa Tiền Sa
Huỳnh (Trung Trung bộ), văn hóa Đồng Nai (Đông Nam bộ).
Năm 1959, tại khu vực này người ta đã phát
hiện ra nhiều di chỉ của người Việt cổ từ thời tiền sử, từ
di chỉ cư trú, mộ táng đến các xưởng sản xuất công cụ lao động và đồ trang sức.
Kết quả thám sát, khai quật trên một diện tích khoảng 4 nghìn m2, do
các nhà khoa học thực hiện 3 lần (vào các năm 1959, 1961, 1968), đã làm phát lộ
hàng nghìn hiện vật, trong đó nổi bật là các hiện vật bằng đá và gốm. Các hiện vật của di chỉ khảo cổ
này nằm trong 4 lớp trầm tích văn hóa: lớp trầm tích đầu tiên là đất canh tác
từ 0,1m-0,2m, lớp thứ nhì là đất phù sa trắng mịn dày 0,05m-0,1m, lớp thứ ba là
đất phù sa lẫn sỏi và than tro dày 0,1m-0,3m và cuối cùng là lớp đất sét mịn
màu vàng nhạt dày khoảng 2,5m.
Các di chỉ tại Phùng Nguyên có niên đại khoảng đầu thiên niên kỷ thứ 2
trước công nguyên, cuối thời
đại đồ đá mới và sơ kỳ thời đại đồ đồng.
Các
hiện vật bằng đá tại di chỉ khảo cổ Phùng Nguyên rất phong phú bao gồm các công cụ lao động, vũ khí đá như rìu có vai, rìu có mấu, rìu tứ
giác (1100 chiếc), đục (59 chiếc), dao cưa, mũi lao, mũi giáo, mũi tên, mũi
nhọn, chày nghiền, hòn kê, bàn mài, bàn dập. Đồ
trang sức đá gồm hơn 500 mảnh
vòng đá đủ kích cỡ, khuyên tai, hạt chuỗi hình ống hoặc hình cườm với lỗ khoan
rất nhỏ v.v. Ngoài ra còn có các loại hình đồ đá khác như lõi vòng, đá hình chữ
nhật mài, thỏi đá mài nhẵn, phác vật rìu, mảnh tước, hòn cuội. Các công cụ, vũ
khí, đồ trang sức đá được ghè, đẽo, tiện, cưa, mài với trình độ điêu luyện, sử
dụng nhiều chất liệu đá khác nhau như đá Bazan, Diabazan, Spilite và đặc biệt
là cả các loại đá bán quý Nephrite, Jadiete. Đồ đá sản xuất ra được mài nhẵn
bóng, hình dáng cân đối đều đặn, có góc vuông cạnh thẳng hoặc tròn trặn duyên
dáng và kích thước nhỏ nhắn. Về mặt cắt ngang vòng xuyến, có đủ loại: hình
vuông, tròn, bán nguyệt, tam giác, chữ nhật, hình thang, và có thêm gờ nổi. Về
màu sắc thì từ trắng ngà, tím nhạt đến gan gà, xám xanh, đủ loại. Kiểu loại tuy
nhiều, song trong đó vòng mặt cắt hình chữ nhật dẹt chiếm số lượng nhiều hơn
cả, trở thành một đặc điểm riêng của vòng trang sức Phùng Nguyên và ở một phương diện nhất định, các
vòng đá dẹt này là một đặc điểm dễ nhận biết nhất của văn hóa Phùng Nguyên.
Tại di
chỉ khảo cổ Phùng Nguyên cũng đã phát hiện được hơn 10 vạn mảnh gốm và đồ gốm
nguyên vẹn của nồi, bình, bát, vật hình nuôi, dọi xe sợi, bi gốm, chạc gốm. Các
hiện vật gốm bao gồm khoảng 200 vật dụng còn nguyên vẹn và nhiều mảnh vỡ, phần
lớn là các dụng cụ sinh hoạt. Đồ gốm hầu hết thuộc vào loại gốm đất sét có chất
liệu rất mịn, không pha cát, thành gốm mỏng, ngoài phủ một lớp áo gốm đen gần
như miết bóng. Kỹ thuật tạo chất liệu này hầu như không thấy trong các văn hóa
trước và sau Phùng Nguyên. Các hiện vật này được làm bằng bàn xoay là chủ yếu,
nằm trong hai nhóm: gốm thô và gốm nung. Gốm nung được qua lửa ở nhiệt độ
khoảng 600-7000C. Các mẫu vật gốm cho thấy không chỉ kỹ thuật pha
chế đất sét của cư dân Phùng Nguyên đạt trình độ cao, mà ngay cả kiểu dáng đồ
gốm cũng thanh thoát nhất trong các hiện vật gốm thời Hùng Vương. Bên cạnh đó,
hoa văn trên hiện vật gốm, thường gặp các dạng dây thừng, văn chải, văn in, văn
đắp thêm, văn đan, văn khắc vạch chấm dải v.v., được chế tác phức tạp, đối xứng
sinh động, có bố cục vừa chặt chẽ vừa phóng khoáng lại được trang trí thành các
dải băng. Tất cả các công đoạn làm gốm từ làm đất, tạo kiểu dáng cho đến trang
trí hoa văn cho thấy đồ gốm Phùng Nguyên đạt đỉnh cao của hoa văn gốm nguyên thủy
ở Việt Nam.
Ngoài
các hiện vật gốm, tại di chỉ Phùng Nguyên còn có một số hiện vật chế tác bằng xương có hình mũi nhọn.
Cho đến
nay dù các nhà nghiên cứu vẫn tạm dừng lại ở kết luận nền văn hóa Phùng Nguyên là
một xã hội có tổ chức của một xã hội công xã nguyên thủy, nhưng nếu được chiêm
ngưỡng những đồ tạo tác của nhưng công dân nguyên thủy thì ngay cả thế giới
hiện đại của chúng ta cũng phải nghiêng mình ngưỡng mộ kỹ thuật tạo tác của họ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét